Nguyễn Tài Cẩn trên nền thi học Việt Nam

15:11 04/06/2009
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

GS Nguyễn Tài Cẩn

Bài này giới thiệu những đóng góp vào nền Thi Học Việt Nam của nhà ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, qua tác phẩm mới xuất bản: Một số Chứng Tích về Ngôn Ngữ Văn Tự và Văn Hoá (1), viết tắt là Một số Chứng Tích. Chúng tôi cũng sẽ nhắc qua 7 tác phẩm trước đây của anh, và nhấn mạnh vào những trước tác xuất bản gần đây nhất.

Một số Chứng Tích, 430 trang, gồm 34 bài báo đã đăng rải rác trong và ngoài nước, dưới nhiều đề tài ngữ học và văn bản học, phản ánh những quan tâm của anh về văn hoá từ 40 năm nay. Nhất là về ngôn ngữ Thơ.

Thành phần thiết yếu trong Thơ là cách gieo vần, đã được Nguyễn Tài Cẩn đặc biệt chú tâm: "cách đọc Hán Việt (thế kỷ VIII và IX) (...) cho phép các nhà thơ Việt đi ngược lại thi pháp Hán tạo ra một lối gieo vần riêng biệt cho Việt Nam" (tr. 422) dựa theo những nguyên âm thuận tai, như ở ca dao tục ngữ, chứ không theo khuôn mẫu Quảng Vận của Trung Quốc; lối gieo vần này không phải lúc nào cũng thành công, "thơ chữ Hán nhưng đọc lên nghe có âm hưởng thuần Việt (...) ngay những trường hợp không thật hài hoà cũng được chấp nhận. Và chính những trường hợp này đã ảnh hưởng đến cả cách gieo vần trong thơ thuần Việt, và đôi khi ảnh hưởng (ngược lại) đến cả cách đọc Hán Việt (tr. 421). Nói khác đi, ngữ học soi sáng cho thi học, nhưng có lúc, thơ ca minh hoạ cho ngữ học. Tác giả đã dựa vào thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, như anh đã trình bày rõ trong một tác phẩm khác về Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370), có thể xem như là công trình nghiên cứu cặn kẽ nhất về bước đầu của ngành Thi Học Việt Nam(2). Trong sách này, anh có nhắc lại bài thơ Việt Nam áp dụng sớm nhất lối cách tân này là bài Cảm Hoài của Vương Hải Thiềm (1046-1100) kết hợp vần ca, qua với ma, giai, ngoài khuôn khổ Quảng Vận phương Bắc.

Ngoài đề tài gieo vần, công trình của Nguyễn Tài Cẩn về ngữ âm lịch sử(3), nguồn gốc cách đọc Hán Việt(4) giúp các nhà nghiên cứu thơ cổ điển Việt Nam lý luận, bình giải xác thực hơn. Ví dụ chúng ta biết rõ tiếng Hán có 4 thanh (bình, thượng, khứ, nhập) chuyển sang tiếng Hán Việt thành 8 thanh (ngang, huyền, hỏi, ngã, sắc khứ, sắc nhập, nặng khứ, nặng nhập)(4). Nền ngữ âm học hiện đại xác nhận điều này(5). Nhờ đó chúng ta có cơ sở cụ thể nhìn rõ đặc tính, nhạc tính, của thơ Việt so với nền thơ gần với chúng ta nhất là thơ Trung Quốc. Chưa kể là Nguyễn Tài Cẩn vạch cho chúng ta thấy nguồn gốc và quá trình của từng phụ âm, từng nguyên âm, là những thành tố cơ bản của Thơ.

Trong Một số Chứng Tích, Nguyễn Tài Cẩn còn lưu tâm về Câu Thơ. Như câu thơ sáu chữ xen giữa thể thất ngôn của Nguyễn Trung Ngạn, trong một cấu trúc không thấy ở thơ Trung Quốc (tr.308). Kỹ thuật này mở đường cho thơ Nôm Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau, tạo nên nét đặc thù của nền thơ Việt Nam so với thơ Đường, thơ Tống.

Anh đã dành một chương dài cho câu thơ lục bát, phân tích cấu trúc nội tại của nó, từ vần điệu, thanh điệu đến nhịp điệu, đi đến những "bước" hai tiếng, trong đó xen kẽ những tiếng chính và phụ theo từng vị trí. Và một cặp lục bát, theo anh, có thể biến hoá thành 256 trường hợp khác nhau (tr. 331).

Thông thường, trong thơ các nước và theo lý thuyết, Vần là cách bắt nhịp và phân định ranh giới. Nhưng trong thi luật Việt Nam, vần lưng không đủ cơ sở làm đường ranh giới cắt đôi đơn vị chứa đựng chúng (tr. 320). Âu cũng là nét khu biệt của Thơ Việt Nam trong khoa Thi Học đối chiếu. Trong tinh thần đối chiếu, Nguyễn Tài Cẩn đã lưu tâm đến thể Ca Trù, một thể loại dân gian Việt Nam, được Nguyễn Khuyến sử dụng để làm thơ chữ Hán, uốn nắn câu thơ Đào Tiềm, Lý Bạch, thành thơ Việt, qua hai bài Bùi Viên cựu trạch và Bùi Viên đối ẩm. Sau đó, Nguyễn Khuyến tự dịch ra quốc âm, cũng trong thể ca trù. Nguyễn Tài Cẩn tỏ ra thích thú khi viết về thể hát nói, làm người đọc tiếc rằng anh không đi xa hơn: thế hệ nghiên cứu sau này sẽ không còn những rung cảm như anh khi viết về một thể loại đã mai một; và trong địa hạt thẩm mỹ Hán Việt đối chiếu, sẽ khó có người vừa uyên bác vừa mẫn cảm như anh, dù rằng thao tác này là trách nhiệm của người làm văn học, đúng hơn là của người làm ngữ học.

Anh đã để tâm đến Câu Đối, qua câu đối quốc ngữ hiện đại: Tết tới túng tiền tiêu, tính toán toan tìm tay tử tế, mà anh phân tích và tìm câu đối lại. Đây là bài viết mua vui, nhưng cũng là một gợi ý về Thi Học: câu đối là cách khai thác triệt để hình thức của ngôn từ. Ra câu đối, mục đích chính không phải là đối thoại, mà là để bắt bí người khác, để cho đối phương không thể, hoặc khó có thể trả lời. Ra câu đối, là áp đảo đối phương bằng bạo lực của ngôn từ, dựa trên bạo lực của quyền thế: người trên, kẻ mạnh, thách thức người dưới, kẻ yếu - ít khi có đối thoại bình đẳng và dân chủ. Sử dụng quyền thế, người ra câu đối (thường là ông quan) đã đẩy chức năng thẩm mỹ của ngôn từ đến tận cùng của tình huống.

Do đó, hơn cả Thi Ca, Câu Đối minh hoạ rõ nét chức năng thi pháp của ngôn từ, theo lý thuyết Jakobson. Câu Đối xuất sắc vì tính cách hóc hiểm, kết hợp ngôn từ với tình huống, chứ không phải xuất sắc vì tư tưởng cao siêu: Da trắng vỗ bì bạch là một điển hình.

Nguyễn Tài Cẩn đã đối lại: Rừng sâu mưa lâm thâm, rất chỉnh; tuy không sát với tình huống, câu đáp có giá trị văn học, là một câu thơ hay, man mác u hoài trong vũ trụ mông mênh.

Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu cũng vậy thôi, nó nói lên thân phận nhỏ nhoi của con người trong lịch sử đa đoan, không nhất thiết phải quan hệ với chuyện Ngô Thời Nhậm - Đặng Trần Thường mà tình huống, thật sự, cũng chưa chắc đã có thực. Những câu đối được truyền tụng, xuất sắc vì văn bản; còn tình huống, đôi khi người đời sau bịa đặt, ngụy tạo một hoạt cảnh, trở thành "giai thoại". Các giai thoại văn học về câu đối, thường tái lập ưu thế cho kẻ yếu, tạo cho họ nét thông minh, nhạy bén, dũng cảm, nhưng đây là chuyện xã hội hơn là ngôn ngữ.

Khi luận về Câu Đối, anh Cẩn cao hứng, nhưng vì cả tâm tình và tư duy anh bị điều kiện hoá trong thi pháp, nên anh vẫn tiếp tục đóng góp vào lập thuyết mà không ngờ là mình lập thuyết.

Từ Vựng học, cách sử dụng ngữ vựng, tham dự vào việc phân biệt thơ và văn xuôi: một từ có thể mang giá trị khác nhau trong thơ hay văn xuôi. Trong địa hạt này, Nguyễn Tài Cẩn đã đem lại những kiến thức lịch đại quan trọng, như trong công trình nghiên cứu thơ chữ Hán và chữ Nôm Nguyễn Trãi, hay khi anh phân biệt thơ Nguyễn Trãi với thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, trên 27 bài tồn nghi, không rõ của người nọ hay người kia. Anh đã mang lại hai thành tựu: phương pháp khảo sát và phẩm chất những khám phá.

Về phương pháp khảo sát từ vựng, anh đưa ra thống kê: trong 250 bài thơ quốc âm, Nguyễn Trãi dùng 11067 lượt từ, trong đó có 2235 từ khác nhau (tr.197), và những từ lặp lại nhiều lần: Nguyệt (62), Xuân (55), Thu (39), Thế (đời) (42). Nguyễn Trãi chỉ dùng từ rau một lần trong sáu lần nói đến rau, những lần khác dùng từ chính xác: muống, niềng niệng, mồng tơi,... Tỷ lệ từ đơn âm rất cao: 71,2 %, số từ đa âm còn lại, phần lớn là từ thuần Việt: phơ phơ, thơn thớt,... Tóm lại, rất ít từ Hán Việt. Để phân biệt thơ Nguyễn Trãi với thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, anh đề nghị dựa trên cách dùng từ và kết hợp từ trong câu, tức cái ngôn ngữ riêng biệt của mỗi tác giả, những chi tiết góp phần làm nên cái gọi là idiolecte (tr. 221) (anh dùng tiếng Pháp trong văn bản). Ví dụ: ở Nguyễn Trãi ao là nơi trồng rau nuôi cá, ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là nơi tắm mát.

Phương pháp này tỉ mỉ, khoa học và khách quan. Nó gạt ra hai lối biện luận văn học mà ngày nay ta vẫn còn thấy rơi rớt đâu đó: một là lối tán tụng theo ấn tượng và gây ấn tượng, dựa trên khả năng thêu hoa dệt gấm của người biên khảo; hai là lối phản ảnh: dùng gia thế, sự nghiệp, giai cấp, lập trường, đường lối,... để giải thích, đồng thời "đánh giá" (tr. 220). Phương pháp của Nguyễn Tài Cẩn đáp ứng lại sự "thèm thuồng" của một Nguyễn Tuân: "Tôi vẫn thèm đọc những bài phê bình bàn bạc thêm về văn chương, về phong cách văn tự, về thủ pháp văn học, về nhãn quan mỹ học của tác giả, sau khi mình đã nhận định xong cái phần chất lượng tư tưởng của họ"(6). Câu này Nguyễn Tuân viết năm 1960, lúc đó chưa đọc
Nguyễn Tài Cẩn.

Phương pháp Nguyễn Tài Cẩn đề xuất, tự nó, đã mang phẩm chất về mặt khoa học và thẩm mỹ, nó có tầm quan trọng đặc biệt mà giới làm văn học ngày nay chưa chắc đã lãnh hội và đánh giá đúng mức. Còn những đóng góp cụ thể của anh thì vô cùng vô tận, chỉ người làm công tác học thuật khi đọc, mới thấu triệt được công ơn của anh trong việc tìm hiểu thi ca.

Trong thơ, mỗi một từ có giá trị riêng, và âm vang riêng, tuỳ thuộc vào cái vỏ âm thanh và nội dung đa nghĩa, gọi là nội hàm của nó. Bên cạnh đó, nó còn chịu ảnh hưởng giao thoa về ngữ âm và ngữ nghĩa của những chữ chung quanh. Ví dụ như chữ mùa giàu âm vang và có nhiều nghĩa: Mùa ổi, mùa Gió Chướng, Ba Mùa, Mùa Hè Chiều Thẳng Đứng, Mùa xưa, Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà... Từ mùa do chữ “vụ” tiếng Hán, là một từ cổ Hán Việt, có trước thời kỳ Hán Việt thế kỷ VIII - IX. Thời xa xưa đó, hai chữ là một, theo Nguyễn Tài Cẩn: “viết vụ đọc mùa”(7). Như vậy mùa có nghĩa mùa màng:

Rồi mùa toóc rã rơm khô
Bạn về quê bạn, biết nơi mô mà tìm

Về sau, mới thêm nghĩa bốn mùa, thời tiết, thời gian, không gian và đèo thêm nội dung tình cảm, u hoài hay hy vọng. Tiếng Anh, Pháp season, saison, cùng một âm vang thi cảm, có lẽ cũng theo quy trình như vậy. Nguyễn Tài Cẩn tỏ ra tâm đắc với chuyện vụ/mùa này nên thường nhắc đi nhắc lại nguồn gốc trong nhiều tác phẩm. Và chúng ta thêm được một kiến thức, hiểu sâu sắc hơn âm vang của chữ mùa trong thi ca dân gian hay hiện đại, hay trong những bài hát của Văn Cao: Từng hẹn mùa xưa..., ngày mùa vui thôn trang..., khi gió mùa thơm ngát....

Trong Một số Chứng Tích có hai bài ước lược và bổ sung cuốn sách(8) Nguyễn Tài Cẩn đã viết về bài thơ chữ Hán của vua Thiệu Trị, bài thất ngôn bát cú tên Vũ Trung Sơn Thuỷ, đọc được 64 cách khác nhau, và anh cho rằng có thể khai triển thành 256 bài. Để người đọc tiện theo dõi anh đã dịch ra tiếng Việt, trong thể tám câu bảy chữ, mà lại đọc được ngần ấy cách, thành ngần ấy bài khác nhau. Âu cũng là một tuyệt chiêu.

Đây là thể thơ “hồi văn” đọc quanh co đi lại đều thành câu, thành bài; đã hồi văn thì phải liên hoàn: lấy câu, hay chữ, cuối bài trước làm câu, hay chữ đầu bài tiếp theo, v.v....

Bài thơ là một "kỹ xảo" của Thiệu Trị, nhưng trong lý thuyết Thi Học có giá trị đặc trưng: thơ là ngôn ngữ dẫm chân tại chỗ, không theo tuyến tính (linéaire). Khi đọc lên thành tiếng thì dĩ
nhiên phải theo thời gian như mọi lời nói. Nhưng nếu chỉ đọc bằng mắt, thì từ ngữ có thể hoán chuyển ngược xuôi. Valéry đã nói đâu đó, đại khái: văn xuôi là đi tới, thơ là khiêu vũ (la poésie est à la prose, ce que la danse est à la marche ), nghĩa là khua đôi chân mà không tiến tới đâu. Văn xuôi là mũi tên phóng về phía trước, thơ là đường kiếm biến hoá không cùng, nhưng vẫn tiến thoái trong vòng tròn của tầm tay.

Văn xuôi thẳng tới: “ta đi tới trên đường ta bước tiếp” theo Tố Hữu; thơ thì lại “lui đôi vai tiến đôi chân, riết đôi vai ngã đôi thân" theo kiểu Vũ Hoàng Chương. Thơ là lối “hồi văn” đi vòng để trở về khởi điểm. Kỹ xảo của Thiệu Trị, vô hình trung, minh hoạ điều này. Càng lý thú hơn nữa khi nghe Nguyễn Tài Cẩn lập luận:

“Bản thân Thiệu Trị chưa hình dung hết tổng số các bài có thể có, các khả năng hồi văn liên hoàn có thể có. Đây là điều không có gì đáng lấy làm lạ, vì cái chuyện ngay tác giả mà cũng không tưởng tượng hết được tất cả các hệ quả của sản phẩm do mình sáng tạo, là một chuyện rất dễ xảy ra, trong cuộc đời, trong khoa học cũng như trong nghệ thuật"(tr. 353).

Đây là lời Nguyễn Tài Cẩn nói về Thiệu Trị. Nay tôi “cóp” nguyên si câu văn để nói về anh, e rằng anh cũng không biết cãi vào đâu. Dành trọn một đời người cho ngữ học, anh chỉ lao tác trong những chuyên đề giới hạn trong nghề nghiệp. Nay nói rằng anh là người nghệ sĩ đặt những nền móng đầu tiên và thiết yếu cho ngành Thi Học lịch đại, nới rộng thành nền Thi Pháp Việt Nam hiện đại, có thể làm anh ngạc nhiên. Nhưng trên thế giới đã có nhiều tiền lệ, như Propp, Jakobson, Kristeva, và bao nhiêu bậc thầy tài danh khác.

Theo lý thuyết ngữ học, ta có thể xem từng mảng đóng góp của Nguyễn Tài Cẩn như những đoản ngữ (syntagme), và toàn bộ trước tác của anh như một từ hệ (paradigme) mà Thi Học là một thành phần thiết yếu. Trong các tác phẩm ngữ học đầu tay, anh là chuyên gia về đoản ngữ(9); trong trước tác về sau, anh ngao du giữa những từ hệ làm nên nền văn học và văn hoá dân tộc, trong tương quan hữu cơ với các nguồn văn hoá của các sắc tộc anh em, của lân bang và thế giới. Từng tác phẩm là Lời Nói (parole), toàn bộ trước tác của anh làm nên Tiếng Nói (langue).

Trên hành trình ngữ học, Nguyễn Tài Cẩn đã nhiều lần ghé lại Bến Thơ. Càng cao tuổi, anh dừng lại càng lâu hơn; cuối cùng, những đoản đình trường đình lại làm nên duyên phận. Ngữ Học của Thơ, với Nguyễn Tài Cẩn, đã hoá thân thành Thơ của Ngữ Học.
Nghĩ cho cùng, con người là toàn diện và duy nhất, làm nghề gì, và sinh sống ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng vậy thôi.

Đ.T
(243/05-09)


-----------------
(1) Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, 2001, Hà Nội
(2) Ảnh hưởng Hán Văn Lý Trần qua Thơ và Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn, 300 trang, Nxb Giáo dục, 1998, Hà Nội
(3) Lịch sử Ngữ âm Tiếng Việt, 350 trang, Nxb Giáo dục, 1995, Hà Nội
(4)
Nguồn gốc và Quá trình hình thành Cách đọc Tiếng Việt, 360 trang, nxb Đại học Quốc Gia, 2000, Hà Nội.
(5) Đoàn Thiện Thuật, Ngữ Âm Tiếng Việt, tr.143, Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1980, Hà Nội.
(6) Nguyễn Tuân, Chuyện Nghề, tr.72, Nxb Tác Phẩm Mới, 1986, Hà Nội
(7) Một số vấn đề về chữ Nôm, tr.25, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 300 trang, 1985, Hà Nội
(8) Tìm hiểu Kỹ xảo trong bài Vũ Trung Sơn Thủy của Thiệu Trị, 450 trang, Nxb Thuận Hoá, 1998, Huế.
(9) Từ loại Danh Từ trong tiếng Việt hiện đại (1960) 300 trang, Nxb Khoa học Xã hội, 1975, Hà Nội.
Ngữ Pháp Tiếng Việt, tiếng, từ ghép, đoản ngữ, 400 trang, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1975, Nxb Đại học Quốc gia tái bản, 1996, Hà Nội.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)