Người lữ hành cô độc

09:07 17/02/2009
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

Trên những bước chân độc hành đi về phía mặt trời mọc, con người là những mảnh vỡ hoàn hảo nhất mà tạo hoá đã ban tặng cuộc đời. Cũng như những dư vị của tình người, văn học luôn là một cuộc chơi tao ngộ giữa những lát cắt chéo chồng của con người và số phận. Tập ký trời Âu của Văn Cầm Hải mang những hơi thở triết lý nhân sinh rất mới lạ, lý giải một khía cạnh của cuộc sống con người trong cấu trúc bát quái ngũ hành. Trong cuộc độc hành ấy, cái tôi của Văn Cầm Hải đi dọc chiều dài của nỗi đau tấy đỏ.  Mỗi nhân vật mang một  hình dáng như những thiên sứ đang đi tìm lai chính giá trị nhân phẩm của mình trong một cuộc đấu tranh sinh tồn không khoan nhượng với nỗi thống khổ, sự nghèo đói và cả thân phận người.

Đọc tập ký của Văn Cầm Hải, tôi tìm thấy một khung trời của những ánh sao băng léo sáng giữa những đêm lạnh Âu Châu xa thẳm. Nhân vật trong ký Văn Cầm Hải mang một cốt cách khá hiền triết, đó là những mảnh đời thực được tác giả lắp ghép cẩn trọng từ lời ăn, tiếng nói, hành động đến tình cảm, xâu chuỗi họ lại với nhau trong cuộc độc hành tìm về chân lý giữa mông lung không gian và  thời gian. Khoảng cách giữa người viết đối với  người đọc, người cảm thụ được rút ngắn bằng sợi dây - tình người- sự bình đẳng trong quan hệ giới tính; sắc tộc và tác giả đã ghi lại rất cảm động hình ảnh họ trên con đường  đi tìm chân lý. Cái chân lý mà như  Đào Chi- một cô gái làm tiền chỉ với một mục đích là có được tiền để đi khắp mọi nơi, được thưởng ngoạn cảnh đẹp và thu thập tư liệu để về viết tiểu thuyết. Rồi người em gái hát dân ca trong một đêm trời Âu Châu cháy bỏng nỗi nhớ nhà , hay chính Dyly đã  không thể hôn người bạn cố tri ân của mình bởi vì lưỡi cô đã bị cắt ngắn...

Tôi không tưởng tượng ra nỗi đau của cô gái tội nghiệp ấy nhưng tôi linh cảm được hẳn nét bút Văn Cầm Hải đã rung động rất nhiều khi viết lên được nỗi lòng đau xót ấy.  Đó là một trong hàng ngàn giấc mơ thánh thiện nhất mà tôi đã bắt gặp trong những trang bút ký của Văn Cầm Hải. Anh đã biến giấc mơ của chính những con người mang nhiều nỗi đau riêng như Đào Chi, Hoa Thuỷ Tiên, chị Thuý, Quyên.... thành nỗi lòng không riêng chỉ cho một người mà cho cả nhân loại. Cái khó khi viết thể ký là  kể lại sự việc xảy ra phải hoàn toàn là sự thật và người viết phải thổi vào đó linh hồn của văn chương; từ đó đời sống hiện thực sẽ đi vào từng câu chữ như chính tình cảm của con người len lỏi giữa dương gian. Văn Cầm Hải không phô bày vốn ngôn từ nhưng phải khẳng định lại một điều là anh đã có một cuộc thanh lọc ngôn từ rất kỹ khi hoàn thành tập ký. Một lần được đắm mình trong những thân phận ký của Văn Cầm Hải , người đọc hẳn sẽ lớn thêm trong những nghĩ suy về cuộc đời, về  những thân phận làm người.

Trong chuyến đi công tác ngắn ngủi, chỉ ba tháng  ở trời Âu Châu, Văn Cầm Hải đã ninh nóng cảm xúc của mình và phôi thai những mẫu ký như tự lòng mình nung gạch. Những viên gạch hồng có chứa cả nỗi thống khổ và nước mắt. Trên những vùng đất xa xôi của địa cầu, có hàng triệu con người đang sống ấy, có cả những người VIỆT lưu vong. Có biết bao nhiêu nỗi niềm được góp nhặt ở đó để rồi tiếng nói đồng cảm của kiếp người cứ thoai thoải trượt về bên này triền dốc của lòng hướng thiện. Đó là nỗi cô quạnh bị tổn thương trong không gian, thời gian sống. Người ta có thể đọc được những lỗi lầm khi quay mặt về nhìn thực tại. Nhưng cũng có thể bỏ qua không biết bao nhiêu giấc mơ về hạnh phúc. Trên tấm thảm trải dọc những nỗi  đau là nước mắt đưa con người về với ngọn nguồn đau khổ. Một người con gái Việt trước khi lưu vong đã mang theo năm nén nhang để thắp vào đêm 30 Tết ở phương người. Nén nhang cuối cùng chị thắp khi ngồi với Văn Cầm Hải ở một đêm lạnh Âu Châu, khi con người cô đơn đến đỉnh điểm, họ tìm về nhau như một niềm tự tại, an ủi. Đêm ba mươi Tết đối với truyền thống người Việt là những gì linh thiêng cao cả nhất của hồn thiêng sông núi, của xương máu cha ông trong cuộc chinh phục quân thù dành lại hoà bình cho con cháu hôm nay. Nhưng với những người sống lưu vong, họ không thể được hưởng trọn niềm hạnh phúc ấy. Bởi vì LƯU VONG. Nghĩa là sự lệ thuộc chua xót đối với những người đồng loại. Để khỏi rơi vào bi kịch của cuộc sống, nếu thắp hết năm nén nhang mà chưa trở lại Việt thì người con gái ấy đã thành thiên cổ với người thân trên đất khách quê người.

Hoa Thuỷ Tiên là tên người con gái Việt mà Văn Cầm Hải đã được tiếp xúc và bày tỏ nỗi lòng mình trong một đêm giao thừa đầy kỷ niệm. Giữa những điều giản dị ấy của cuộc đời, ký Văn Cầm Hải có sự hiện thân và tranh đấu giữa cái Thiện và cái Ác. Tuy nhiên không phải chỉ là cách nói tượng trưng mà là một cách bày tỏ thấu đáo. Cũng như khi Văn Cầm Hải đến thăm thành phố Pari tráng lệ, anh đã gặp được những tâm hồn rất trong sáng. Đó là người đàn ông có mái tóc như một chậu bonsai đặt lên một khuôn mặt có đôi mắt sáng ngời đầy tình yêu cuộc sống. Chính những cuộc thăm viếng bất ngờ hay những đêm la cà khắp xó xỉnh trời Âu ấy đã hun đúc trong tâm hồn người viết một luồng suy nghĩ không nguôi nghĩ. Đó là thân phận những con người- đồng loại đang lưu vong và sống khắp nơi nơi trên thế giới. Họ có những nỗi niềm, những khát vọng bỏng cháy không dễ  gì lay chuyển dẫu xã hội có đối xứ thậm tệ với họ. Hay nói cách khác những nỗi niềm ấy đã được tái hiện bằng những câu chuyện kể đầy cảm động, ''Trên dấu chim di thê'' là một sự khẳng định hay cốt truyện chính là sự giãi bày thấu đáo của người viết trước mâu thuẫn của cuộc sống. Thế giới ảo trong tập ký của Văn Cầm Hải là một sự khởi đầu của loài người khi bước vào thế giới văn minh theo chủ nghĩa hiện sinh.

Biết cách đọc sự khổ đau và nỗi tê tái của nhân vật là tính cách đáng khâm phục trong phong cách ký Văn Cầm Hải. Không phải đó là một sự bằng lòng về cách viết mà ở chỗ Văn Cầm Hải biết được cách mớm câu chuyện mình sắp kể bằng một thái độ làm việc đúng quy cách, nghiêm túc trong từng câu, chữ. Tập ký làm rung động lòng người là ở chỗ tác giả biết cách mặc định nỗi thống khổ của con người trên cây bút của mình. Độc hành một mình trên những nẻo đường với những cuộc viếng thăm tình cờ như nơi sinh ra nhà triết học Nietzsche, hay cuộc gặp thân tình với nhà văn Nguyễn Hiền ở Hà Lan, rồi cánh đồng với những người Việt thuộc bài hát “Làng quan họ quê tôi'” của nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo. Đó là cuộc hạnh ngộ mang tính nhân văn cao cả trong văn hoá Việt khi ở trên trời Âu. Từ đó ý thức, nhân cách của người viết được bộc lộ một cách khác sắc sảo. Khi đưa ra những sự liên tưởng, so sánh khăng khít trong từng mẩu chuyện bắt gặp trên chuyến du ngoạn tây Âu. Như  khi Văn Cầm Hải viết về cuộc thảm sát tàn khốc ở Apcaxtang đã đưa Khan và Mary đến một nỗi đau thống khổ bởi những cuộc chiến không khoan nhượng giữa hai luồng đạn của những người ''ngoại đạo''. Cuộc chia ly đầy nước mắt vì sắc tộc màu da  để tìm đến chốn yên thân trong đau đớn của hai người bạn mới đã khiến Văn Cầm Hải xót xa về thân phận làm người. Con người có thể thuộc về nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia, nhiều tôn giáo, nhiều thời đại khác nhau, nhưng tình yêu và thù hận là chung cho tất cả. Trong ký của Văn Cầm Hải, điều này được khẳng định như một sự tiền định cho số phận con người. Điều này thể hiện trong ngôn ngữ ký có chút ngạo nghễ của một người từng trải qua nhiều nỗi chua chát bởi cuộc sống hàng ngày ngoài xã hội. Tìm cách đưa đời sống xã hội vào văn học là một việc làm rất khó, dễ gây ra sự bằng phẳng, kể lể. Nhưng chính Văn Cầm Hải đã tạo được hưng phấn cho cảm xúc của mình trong đa thức ngôn ngữ. Tách bạch và sử dụng được phần mềm nền móng cho mọi sự khởi đầu, chính điều này đã mang lại cho tập ký của anh một nguồn mạch sống riêng đối với thể loại ký.

Khi con người ta cô độc, mọi suy nghĩ sẽ xuất hiện không chút gợn đục, nghĩa là sự cọ xát không con làm ảnh hưởng đến đời sống thực. Cũng chính vì cái lý thuyến suông ấy mà hầu như những người cầm bút ít nhiều đều tự thấy mình cô độc chăng? Văn Cầm Hải là một người làm việc khá nghiêm túc, sự kết dính giữa đời sống thực tiễn và đời sống văn học không làm cho tình cảm chi phối anh. Khi một mình đối diện với những mảnh tâm hồn lưu vong trên những vùng đất anh đặt chân đến, ngòi bút anh đã bật lân những tiếng lòng ngưng đọng mãi. Cách vận dụng đời sống tâm linh cũng là điều đáng chú trọng khi tìm hiểu tập ký. Tuy một vài chi tiết trong tập ký vẫn còn thiếu sự đánh giá cụ thể, đó là những vỹ thanh trầm trong vạn ngàn thanh âm đồng điệu bên ngoài cuộc sống chưa được sắp xếp hoàn hảo. Nhưng những trang viết đượm chất nhân văn của Văn Cầm Hải đã làm cho người cảm thụ hiểu được tính đa thức của ngôn ngữ ký và nghệ  thuật hùng biện trong thể ký.

Phát hiện vấn đề, sự kiện trong tập ký của Văn Cầm Hải là một phát hiện mới mẻ của văn học Việt . Đó không chỉ đơn thuần là việc ghi lại chân dung người thật việc thật mà đây là câu chuyện kể cảm động về số phận những con người LƯU VONG. Ở những khía cạnh khác nhau của cuộc sống, con người ta có thể chua cay, khinh rẻ lẫn nhau nhưng chung quy lại vẫn là tình người. Sống không có tâm thì cũng chỉ là một thể xác cứng nhắc không hơn không kém. Bởi vậy Văn Cầm Hải đã rất nhân đạo khi cho nhân vật của mình tự bạch tất cả. Đó là nét thành công nhất trong tập ký của Văn Cầm Hải- Người lữ hành cô độc đi tìm chân lý cho những tâm hồn đồng cảm trong dòng chảy bộn bề của cuộc sống ngoài kia.
N.T.A.Đ

(nguồn: TCSH số 193 - 03 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)

  • THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.

  • THI THOẠI        Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).

  • MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.

  • HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…

  • NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn  360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.

  • Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.

  • LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)

  • KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.

  • …Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…

  • L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.

  • Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)

  • HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.

  • TRẦN THIỆN KHANH (Nhân đọc Phim đôi - tình tự chậm, Nxb. Thanh niên 2010)

  • LGT: Tuệ Nguyên, một nhà thơ trẻ dám dấn thân để lục tìm chất men sáng tạo ở những vùng đất mới với khát vọng cứu rỗi sự nhàm chán trong thi ca. Trong chuyến xuyên Việt, anh đã ghé thăm tạp chí Sông Hương. Phóng viên Lê Minh Phong đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ trẻ này.

  • KHÁNH PHƯƠNG Lê Vĩnh Tài tự chẩn căn bệnh của thơ tình Việt Nam là “sến”, nghĩa là đa sầu đa cảm và khuôn sáo, bị bó buộc trong những lối biểu hiện nhất định. Rất nhanh chóng, anh đưa được lối cảm thức đương đại vào thơ tình, cái ngẫu nhiên, vu vơ, ít dằn vặt và không lộ ra chủ ý, dòng cảm xúc ẩn kín sau những sự vật tình cờ và cả những suy lý.

  • HỒ THIÊN LONGBạn đọc TCSH thường thấy xuất hiện trên tạp chí, và một số báo văn nghệ khác một số tên tuổi như về văn xuôi có: Lê Công Doanh, Phùng Tấn Đông, Châu Toàn Hiền, Nguyễn Minh Vũ, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Phú Phong, Trần Thùy Mai…