Người gửi trái tim ở lại Hội An

08:47 04/03/2014

NGUYỄN NHÃ TIÊN

Có một con đường mà tôi đi hoài không hết Hội An. Dường như cái phố cổ ấy luôn thường hằng phát đi một tín hiệu: nhớ. Lại thường chọn rất đúng cái khoảnh khắc con người ta nhớ mà rót cái tín hiệu ấy tới.

Vậy thì làm sao đi cho hết nhớ, đi cho hết thương, đi cho hết yêu! Đi không hết nên cứ ham hố về Hội An vào bất cứ lúc nào trái tim mình nhận được tín hiệu mơ hồ ấy. Khổ nỗi, nhiều lần có mặt ở Hội An, loanh quanh trên những con đường Lê Lợi, Trần Phú, Nguyễn thị Minh Khai, rồi vòng xuống Bạch Đằng ngồi ngắm… sông, ấy vậy mà, ở Hội An lại nhớ Hội An, cứ như thi sĩ Nguyễn Bính “Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên” vậy.

 Những ngày cuối năm, bỗng nhiên cái tâm thế lơ ngơ của tôi ứ đầy nỗi nhớ mơ hồ thế kia, thì nhà văn Hà Khánh Linh bất ngờ từ Huế vào, ấn vào tay tôi cái món quà mang tên “Trái tim tôi ở Hội An”. Lại thêm một tình nhân của Hội An nữa đây! Ấy là tôi nói theo hơi hướm của Tagore vĩ đại: “Thi sĩ là tình nhân của nhân loại”. Mà chị Hà Khánh Linh vừa là nhà văn lại cũng vừa là một thi sĩ, một nhân vật huyền ảo trong “Trăng hoàng cung- Thiên tiểu thuyết thơ tình 13 chương viết trên giấy có kẻ dòng” của nhà thơ Phùng Quán. Một con người huyền thoại đến thế ấy, lại bê nguyên trái tim mình đặt ở Hội An, thì quả, nếu không là một “tình nhân” ắt cũng là một niềm đam mê cháy bỏng tột cùng.

 Thực ra từ xưa cho đến bây giờ, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ nức tiếng trên văn đàn, bằng nhiều cách khác nhau, cũng đã từng… gửi trái tim của mình ở lại Hội An. Ví như Kazimier Kwiatkowsky, Lưu Công Nhân, hay ruột rà gần gũi là nhà Hội An học Nguyễn Bội Liên chẳng hạn. Nhưng chị Hà Khánh Linh là một nhà văn xứ Huế, hầu như hơn 40 năm cầm bút, với hơn 20 tác phẩm đã xuất bản, bao gồm: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, hồi ký và thơ, thì đây là tập truyện ngắn lần đầu chị viết riêng một chủ đề về vùng đất Quảng, lấy Hội An làm bối cảnh trung tâm, chọn tên gọi truyện ngắn đầu tiên làm tiêu đề của sách; TRÁI TIM TÔI Ở HỘI AN.

Nhà văn Hà Khánh Linh và tác giả


 Đọc văn Hà Khánh Linh tuy chưa hầu hết các tác phẩm đã xuất bản, nhưng nếu rút ra hồn phách văn chương của chị, thì xuyên suốt từng tác phẩm, cái độc đáo của nhà văn không ở sự lấp lánh của từng câu văn, trang văn, mà là cách xây dựng nhân vật. Chừng như nỗi hoài thai cho một lý tưởng cao cả, hướng tới siêu việt là nỗi ám ảnh thường trực trong tâm hồn của chị ký gửi vào mỗi nhân vật. Chiến tranh, Hòa bình, Tình yêu, Đức tin, Tôn giáo… là thế giới bao la cho những nhân vật của chị phiêu lưu. Gấp từng tập sách của Hà Khánh Linh lại, người ta có thể không nhớ một dòng văn, một câu văn nào, nhưng từ hình ảnh cho tới nội tại nhân vật thì người đọc khó mà quên được. Từ một “anh Giám” (trong Trường Sơn ngày ấy) cho đến “Lộ Đức” (trong Người cắm hoa nhà thờ) là những nguyên mẫu nhân vật lý tưởng như thế. “Trái tim tôi ở Hội An” cũng nằm trong motif nghệ thuật đó. Có một cách thế khác hơn, mới hơn, mà tôi ngờ rằng, tuổi tác hay nói như người ta thường nói là sự trải nghiệm, mà cũng có thể là Hội An đã truyền cho nhà văn nguồn cảm hứng ẩn mật dày trong tầng tầng rêu xanh kia những con đường vô tận mang tên: thời gian, mà muốn đi trên những lối ấy không chọn lựa nào đẹp hơn bằng hành trình của vô thức. Nhân vật cô gái (tôi) có cha là người Pháp làm ở Tòa Công sứ Hội An thời xưa, mẹ là người Quảng Nam, cô theo cha về Paris khi còn nằm trong thai mẹ. Sinh ra và lớn lên ở Pháp, cô đã tìm về Hội An theo con đường huyền ảo vô thức ấy. Và kịch tính xuất hiện, từ cái nhân vật nhuốm màu định mệnh (người đàn ông tâm thần) ở Hội An trong cuộc hôi ngộ bất ngờ và cũng khá mơ hồ. Ở đây, tình yêu, hay một thứ tình cảm còn hơn thế nữa – siêu tình yêu chăng? Đó là kỳ công của tác giả. Cái đẹp của “Trái tim tôi ở Hội An” bắt đầu từ đó.

 Vậy là với tôi lại có thêm một con đường về Hội An. Cố nhiên là không phải những lối rêu xanh lớp lớp ấy, mà là những trang sách, những nhân vật mà tôi chưa từng gặp mặt bao giờ, dẫu có xới tung ký ức tìm kiếm một gương mặt thân quen mơ hồ nào đó. Nếu là thi sĩ Lưu Trọng Lư thì ít ra tôi cũng loáng thoáng cái bóng dáng của người nghệ sĩ chạy xe thổ mộ ở Hội An (trong Nửa đêm sự tỉnh). Nếu là nhà thơ Chế Lan Viên thì ít ra ở phố cổ này tôi cũng nghe ra nụ hôn mà đoán phương bể rộng, “Yêu ở đâu thì yêu/ Về Hội An xin chớ/ Hôn một lần ở đó/ Một lần vang thủy triều” (Thơ CLV). Milan Kundera viết về “Nghệ thuật tiểu thuyết” có nói một ý thế này “ Biết về tác giả chẳng thể làm tăng thêm giá trị tác phẩm” (Bản dịch Nguyên Ngọc, NXB Văn Hóa). Cái lý của nó quả là như thế thật, nhưng cũng có những trường hợp không thể không biết về tác giả bởi những tương quan giữa cuộc đời thật và tác phẩm. Như Đại thi hào Nguyễn Du, đọc truyện Kiều thì không thể không tìm hiểu về cuộc đời ông, như Hồ Dzếnh, đọc “Chân trời cũ” thì không thể không biết về cuộc đời Hồ Dzếnh. Gần gũi nhất trong vùng quê đất Quảng là thi sĩ dị thường Bùi Giáng, dường như cái bóng dáng phiêu bồng của ông tỏa bóng lên tất cả tác phẩm của Bùi thi sĩ, cho dù thơ hay dịch, triết học hay giảng luận. Nói lên ý này là để tôi nói về một Hà Khánh Linh- nhà văn đương đại xứ Huế trót duyên nợ với Hội An, lúc bóng đời ánh lên cái quầng ráng phía tà dương.

 Dường như thi sĩ Phùng Quán là người phát hiện ra nhan sắc của Hà Khánh Linh, cả nhiên thể và thức thể, để từ đó đem lòng cuồng si ra mà thơ dại yêu, thơ dại ghen, thơ dại làm nên một “Trăng hoàng cung” lung linh trong tình yêu đại chúng. Đố ai có con mắt thần sầu như ông mô tả nhan sắc của người mình yêu: “Nhưng em ơi anh không biết/ từ chất liệu gì trăng bày đặc ra em/ Một vùng tóc như một vùng biển tối/ Vũng mắt em thăm thẳm tia nhìn/ Những ngón tay ngón chân có mùi hoa đại/ Cái cổ trần như rong dưới đáy sông Hương” (Trăng hoàng cung). Đấy là một Hà Khánh Linh hư thực trong tiểu thuyết (thơ) Phùng Quán. Còn một Hà Khánh Linh thật ở cuộc đời với tôi thật gần gũi, chân thật và đầy nhân hậu, dù đôi khi cái chất “mệ” khuôn thước nghiêm cẩn của chị có làm tôi chột dạ đôi phần. Tính cách này đọc văn chị dễ nhận thấy. Nó như một thứ dây cương vô hình chợt ghìm lại để tránh sự quá đà của sức ngựa say nước đại đường trường.

 Cũng chả rõ chị ghìm cương ở quãng nào trên đường về Hội An, nhưng xem ra nhà văn còn say sưa lắm. Chị nói với tôi: “Sắp tới mình sẽ thực hiện một chuyến lội khắp Quảng Nam để khởi đầu cho một tiểu thuyết mới, cũng lấy bối cảnh đất Quảng làm trung tâm”. Ở vào lớp ngưỡng cửa “thất thập” mà sức viết của chị cứ như thời trai trẻ. Thời cô sinh viên Nguyễn Khoa Như Ý bỏ dở đại học Sài Gòn lên chiến khu làm quân giải phóng, rồi thành nhà báo, nhà văn, nhà thơ. Mượn ý của chị giải thích về cái bút hiệu của mình: “Trong chữ Hán, Hà là hoa sen- biểu tượng của sự tinh khiết. Linh là loài hoa linh thoại. Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói: Hoa linh thoại là hoa quí hiếm, hàng ngàn năm mới nở một lần. Khi có cả hai loài hoa: hoa sen và hoa linh thoại cùng nở, ắt có khánh hỷ”. Vâng, tôi cầu mong mùa xuân này người đẹp của“Trăng hoàng cung” sẽ khánh hỷ trong những khát khao gieo cấy mùa màng văn chương trên vùng đất Quảng, như đã từng một lần gửi “Trái tim tôi ở Hội An”!

  Đà Nẵng, những ngày đầu năm 2014
  NNT







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).