NGUYỄN NHÃ TIÊN
Có một con đường mà tôi đi hoài không hết Hội An. Dường như cái phố cổ ấy luôn thường hằng phát đi một tín hiệu: nhớ. Lại thường chọn rất đúng cái khoảnh khắc con người ta nhớ mà rót cái tín hiệu ấy tới.
Vậy thì làm sao đi cho hết nhớ, đi cho hết thương, đi cho hết yêu! Đi không hết nên cứ ham hố về Hội An vào bất cứ lúc nào trái tim mình nhận được tín hiệu mơ hồ ấy. Khổ nỗi, nhiều lần có mặt ở Hội An, loanh quanh trên những con đường Lê Lợi, Trần Phú, Nguyễn thị Minh Khai, rồi vòng xuống Bạch Đằng ngồi ngắm… sông, ấy vậy mà, ở Hội An lại nhớ Hội An, cứ như thi sĩ Nguyễn Bính “Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên” vậy.
Những ngày cuối năm, bỗng nhiên cái tâm thế lơ ngơ của tôi ứ đầy nỗi nhớ mơ hồ thế kia, thì nhà văn Hà Khánh Linh bất ngờ từ Huế vào, ấn vào tay tôi cái món quà mang tên “Trái tim tôi ở Hội An”. Lại thêm một tình nhân của Hội An nữa đây! Ấy là tôi nói theo hơi hướm của Tagore vĩ đại: “Thi sĩ là tình nhân của nhân loại”. Mà chị Hà Khánh Linh vừa là nhà văn lại cũng vừa là một thi sĩ, một nhân vật huyền ảo trong “Trăng hoàng cung- Thiên tiểu thuyết thơ tình 13 chương viết trên giấy có kẻ dòng” của nhà thơ Phùng Quán. Một con người huyền thoại đến thế ấy, lại bê nguyên trái tim mình đặt ở Hội An, thì quả, nếu không là một “tình nhân” ắt cũng là một niềm đam mê cháy bỏng tột cùng.
Thực ra từ xưa cho đến bây giờ, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ nức tiếng trên văn đàn, bằng nhiều cách khác nhau, cũng đã từng… gửi trái tim của mình ở lại Hội An. Ví như Kazimier Kwiatkowsky, Lưu Công Nhân, hay ruột rà gần gũi là nhà Hội An học Nguyễn Bội Liên chẳng hạn. Nhưng chị Hà Khánh Linh là một nhà văn xứ Huế, hầu như hơn 40 năm cầm bút, với hơn 20 tác phẩm đã xuất bản, bao gồm: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, hồi ký và thơ, thì đây là tập truyện ngắn lần đầu chị viết riêng một chủ đề về vùng đất Quảng, lấy Hội An làm bối cảnh trung tâm, chọn tên gọi truyện ngắn đầu tiên làm tiêu đề của sách; TRÁI TIM TÔI Ở HỘI AN.
![]() |
Nhà văn Hà Khánh Linh và tác giả |
Đọc văn Hà Khánh Linh tuy chưa hầu hết các tác phẩm đã xuất bản, nhưng nếu rút ra hồn phách văn chương của chị, thì xuyên suốt từng tác phẩm, cái độc đáo của nhà văn không ở sự lấp lánh của từng câu văn, trang văn, mà là cách xây dựng nhân vật. Chừng như nỗi hoài thai cho một lý tưởng cao cả, hướng tới siêu việt là nỗi ám ảnh thường trực trong tâm hồn của chị ký gửi vào mỗi nhân vật. Chiến tranh, Hòa bình, Tình yêu, Đức tin, Tôn giáo… là thế giới bao la cho những nhân vật của chị phiêu lưu. Gấp từng tập sách của Hà Khánh Linh lại, người ta có thể không nhớ một dòng văn, một câu văn nào, nhưng từ hình ảnh cho tới nội tại nhân vật thì người đọc khó mà quên được. Từ một “anh Giám” (trong Trường Sơn ngày ấy) cho đến “Lộ Đức” (trong Người cắm hoa nhà thờ) là những nguyên mẫu nhân vật lý tưởng như thế. “Trái tim tôi ở Hội An” cũng nằm trong motif nghệ thuật đó. Có một cách thế khác hơn, mới hơn, mà tôi ngờ rằng, tuổi tác hay nói như người ta thường nói là sự trải nghiệm, mà cũng có thể là Hội An đã truyền cho nhà văn nguồn cảm hứng ẩn mật dày trong tầng tầng rêu xanh kia những con đường vô tận mang tên: thời gian, mà muốn đi trên những lối ấy không chọn lựa nào đẹp hơn bằng hành trình của vô thức. Nhân vật cô gái (tôi) có cha là người Pháp làm ở Tòa Công sứ Hội An thời xưa, mẹ là người Quảng Nam, cô theo cha về Paris khi còn nằm trong thai mẹ. Sinh ra và lớn lên ở Pháp, cô đã tìm về Hội An theo con đường huyền ảo vô thức ấy. Và kịch tính xuất hiện, từ cái nhân vật nhuốm màu định mệnh (người đàn ông tâm thần) ở Hội An trong cuộc hôi ngộ bất ngờ và cũng khá mơ hồ. Ở đây, tình yêu, hay một thứ tình cảm còn hơn thế nữa – siêu tình yêu chăng? Đó là kỳ công của tác giả. Cái đẹp của “Trái tim tôi ở Hội An” bắt đầu từ đó.
Vậy là với tôi lại có thêm một con đường về Hội An. Cố nhiên là không phải những lối rêu xanh lớp lớp ấy, mà là những trang sách, những nhân vật mà tôi chưa từng gặp mặt bao giờ, dẫu có xới tung ký ức tìm kiếm một gương mặt thân quen mơ hồ nào đó. Nếu là thi sĩ Lưu Trọng Lư thì ít ra tôi cũng loáng thoáng cái bóng dáng của người nghệ sĩ chạy xe thổ mộ ở Hội An (trong Nửa đêm sự tỉnh). Nếu là nhà thơ Chế Lan Viên thì ít ra ở phố cổ này tôi cũng nghe ra nụ hôn mà đoán phương bể rộng, “Yêu ở đâu thì yêu/ Về Hội An xin chớ/ Hôn một lần ở đó/ Một lần vang thủy triều” (Thơ CLV). Milan Kundera viết về “Nghệ thuật tiểu thuyết” có nói một ý thế này “ Biết về tác giả chẳng thể làm tăng thêm giá trị tác phẩm” (Bản dịch Nguyên Ngọc, NXB Văn Hóa). Cái lý của nó quả là như thế thật, nhưng cũng có những trường hợp không thể không biết về tác giả bởi những tương quan giữa cuộc đời thật và tác phẩm. Như Đại thi hào Nguyễn Du, đọc truyện Kiều thì không thể không tìm hiểu về cuộc đời ông, như Hồ Dzếnh, đọc “Chân trời cũ” thì không thể không biết về cuộc đời Hồ Dzếnh. Gần gũi nhất trong vùng quê đất Quảng là thi sĩ dị thường Bùi Giáng, dường như cái bóng dáng phiêu bồng của ông tỏa bóng lên tất cả tác phẩm của Bùi thi sĩ, cho dù thơ hay dịch, triết học hay giảng luận. Nói lên ý này là để tôi nói về một Hà Khánh Linh- nhà văn đương đại xứ Huế trót duyên nợ với Hội An, lúc bóng đời ánh lên cái quầng ráng phía tà dương.
Dường như thi sĩ Phùng Quán là người phát hiện ra nhan sắc của Hà Khánh Linh, cả nhiên thể và thức thể, để từ đó đem lòng cuồng si ra mà thơ dại yêu, thơ dại ghen, thơ dại làm nên một “Trăng hoàng cung” lung linh trong tình yêu đại chúng. Đố ai có con mắt thần sầu như ông mô tả nhan sắc của người mình yêu: “Nhưng em ơi anh không biết/ từ chất liệu gì trăng bày đặc ra em/ Một vùng tóc như một vùng biển tối/ Vũng mắt em thăm thẳm tia nhìn/ Những ngón tay ngón chân có mùi hoa đại/ Cái cổ trần như rong dưới đáy sông Hương” (Trăng hoàng cung). Đấy là một Hà Khánh Linh hư thực trong tiểu thuyết (thơ) Phùng Quán. Còn một Hà Khánh Linh thật ở cuộc đời với tôi thật gần gũi, chân thật và đầy nhân hậu, dù đôi khi cái chất “mệ” khuôn thước nghiêm cẩn của chị có làm tôi chột dạ đôi phần. Tính cách này đọc văn chị dễ nhận thấy. Nó như một thứ dây cương vô hình chợt ghìm lại để tránh sự quá đà của sức ngựa say nước đại đường trường.
Cũng chả rõ chị ghìm cương ở quãng nào trên đường về Hội An, nhưng xem ra nhà văn còn say sưa lắm. Chị nói với tôi: “Sắp tới mình sẽ thực hiện một chuyến lội khắp Quảng Nam để khởi đầu cho một tiểu thuyết mới, cũng lấy bối cảnh đất Quảng làm trung tâm”. Ở vào lớp ngưỡng cửa “thất thập” mà sức viết của chị cứ như thời trai trẻ. Thời cô sinh viên Nguyễn Khoa Như Ý bỏ dở đại học Sài Gòn lên chiến khu làm quân giải phóng, rồi thành nhà báo, nhà văn, nhà thơ. Mượn ý của chị giải thích về cái bút hiệu của mình: “Trong chữ Hán, Hà là hoa sen- biểu tượng của sự tinh khiết. Linh là loài hoa linh thoại. Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói: Hoa linh thoại là hoa quí hiếm, hàng ngàn năm mới nở một lần. Khi có cả hai loài hoa: hoa sen và hoa linh thoại cùng nở, ắt có khánh hỷ”. Vâng, tôi cầu mong mùa xuân này người đẹp của“Trăng hoàng cung” sẽ khánh hỷ trong những khát khao gieo cấy mùa màng văn chương trên vùng đất Quảng, như đã từng một lần gửi “Trái tim tôi ở Hội An”!
Đà Nẵng, những ngày đầu năm 2014
NNT
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?