Ngô Tất Tố - Người cùng thời với chúng ta

16:03 26/06/2009
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

Nhà văn Ngô Tất Tố (Ảnh: vlcc.org.vn)

Tôi thử làm một kiểm kể như sau, để thấy trong sự phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử vào 30 năm đầu thế kỷ XX, các thế hệ nhà văn từ Nho học chuyển sang Tây học đã có một cuộc chạy tiếp sức, gần như trong từng thập niên một, với những tiệm tiến và nhảy vọt, để đến với cái đích hiện đại sẽ được hoàn kết vào năm 1945. Đó là, ở khởi đầu, kể từ thập niên cuối thế kỷ XIX, với người tiền trạm là Tản Đà - sinh năm 1890 (không kể trước đó: Nguyễn Văn Vĩnh - sinh năm 1882; Nguyễn Trọng Thuật - 1883; Hồ Biểu Chánh - 1885; Nguyễn Tử Siêu - 1887) Ngô Tất Tố - 1893; Trần Tuấn Khải - 1894; Vũ Đình Long - 1896; Hoàng Ngọc Phách - 1896; Tương Phố - 1896; Khái Hưng - 1896... Thế hệ nối tiếp, bắt đầu từ Tú Mỡ - 1900; Nguyễn Công Hoan - 1903; Nam Xương - 1905; Nhất Linh - 1906; Đông Hồ - 1906 (sau Tương Phố 10 năm); Lê Văn Trương - 1906; Thế Lữ - 1907... Tiếp đến, chuyển sang thập niên thứ ba, với khởi đầu là Nguyễn Tuân và Thạch Lam - 1910; Vũ Trọng Phụng - 1912; Nguyễn Huy Tưởng - 1912... Cho đến thế hệ sinh năm 1920, với Tô Hoài, Chế Lan Viên, Tố Hữu...
Vậy là, gần như mỗi thập niên là sự xuất hiện và kế tiếp của một thế hệ viết.

Ở danh sách trên, Ngô Tất Tố, là thuộc thế hệ mở đầu. Thế nhưng, cùng với Khái Hưng - sinh sau 3 năm, Ngô Tất Tố sẽ cùng với Khái Hưng là 2 người vượt được ngưỡng 1930 để tham gia vào đời sống văn học 1932-1945; cả hai dều đứng ở hàng đầu hai trào lưu lớn là hiện thực và lãng mạn. Còn những người khác đều đứng ở bên này phòng chờ - những năm 20, dẫu từng là những gương mặt rất sáng giá như Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Hoàng Ngọc Phách; cả ba cùng với nhiều người khác trong các lực lượng rất đông đảo ở cả Nam Bộ và Bắc Bộ đều không thể theo kịp thời cuộc để đến với cái đích cuối cùng của tiến trình hiện đại hoá.

Sinh năm 1893 - chỉ kém tuổi Tản Đà thế mà Ngô Tất Tố đã làm được một cuộc bứt phá ngoạn mục, để đuổi kịp, và vượt lên đứng hàng đầu trào lưu hiện thực với Tắt đèn (đăng báo - 1936; in sách - 1939); Việc làng đăng báo - 1940; in sách 1941); Lều chõng đăng báo - 1939, in sách - 1941), đúng vào lúc trào lưu hiện thực có sứ mệnh thay thế trào lưu lãng mạn, và đạt đỉnh cao của thành tựu vùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng vào những năm 1936 - 1939; và tiếp tục giữ vững vị trí đó, cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Đình Lạp vào nửa đầu những năm 40.

Vậy là ông đứng cùng vị trí với thế hệ Nguyễn Công Hoan, người thua ông 10 tuổi; với Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng ... ngót 20 tuổi, và Nam Cao, Tô Hoài... ngót 30 tuổi.

Ở tuổi ngoài 45, ông vẫn là người đồng hành với các thế hệ đến sau, tất cả đều ở tuổi ngoài 20 và 30, vào một thời đời sống xã hội và sinh hoạt văn học thay đổi cực kỳ khẩn trương gần như trong từng thập niên một. Trong khi những tên tuổi lẫy lừng cùng thời với ông như Tản Đà và Hoàng Ngọc Phách, bỗng trở nên lỗi thời vào những năm 30. Hãy nghe Vũ Trọng Phụng khen ngợi Tắt đèn - “một tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy”. Đánh giá này của Vũ Trọng Phụng hoàn toàn chân xác - cho đến năm 1939 là năm Vũ qua đời. Thế nhưng, giá như Vũ Trọng Phụng có thể sống thêm dăm năm nữa, để được biết đến những Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Kim Lân, Đồ Phồn, thì theo tôi, nhận định trên của tác giả Giông tố, Số đỏ vẫn không cần điều chỉnh. Bởi, kể cả Nam Cao là cây bút xuất sắc nhất về làng quê Việt Nam thời 1941 - 1945; cả Nam Cao vẫn chưa thể hội đủ những giá trị làm nên một nhận thức toàn diện và sâu sắc, đầy trăn trở và xúc động về cảnh ngộ và số phận người nông dân Việt Nam như trong Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình, và hàng trăm tiểu phẩm dười các bút danh khác nhau của Ngô Tất Tố.

Với tôi, chưa có tác phẩm nào về nông thôn và người nông dân Việt Nam, trong văn học trước 1945 đạt được sự xúc động sâu xa và bền vững như Tắt đèn. Quả là về phương diện nghệ thuật, người đọc không khó nhận ra, đôi lúc một hơi văn cũ, dấp dính chút ít biền ngẫu, trong tả cảnh, như: “Mõ cá trên cột đình lại há miệng nhận những cây dùi giận dữ. Trống cái dưới xà đình lại lỳ mặt chịu những cái nện phũ phàng”; và tả người: “Bên đám lông mày cong rướn, mấy sợi tóc mai lả thả rũ xuống, hình như làn khói thuốc lào phớt phơ bay trước khuôn gương. Và trên cái gò má đỏ bừng, và ba giọt nước mắt thánh thót đuổi nhau chẳng khác hạt sương mai lánh động trong cánh hoa hồng mới nở...”. Nhưng, ấn tượng bao trùm về Tắt đèn vẫn là một bức tranh đời rất sắc nét trên tất cả mọi chân dung và đối thoại, không trừ ai, trong số mấy chục nhân vật có tên hoặc không tên, xoay quanh một hình tượng trung tâm là chị Dậu, với nguyên cớ của mọi tai ương là một cái suất sưu đánh vào người chết, khiến cho tất cả mọi người thân còn sống đều phải điêu đứng. Và, ngay cả về ngôn ngữ và nhịp điệu trong tổng thể bức tranh Tắt đèn vẫn là một hơi văn mạnh mẽ, rắn rỏi - rắn rỏi cho đến tận dòng cuối truyện:

            “Buông tay, chị vội choàng dậy, mở cửa chạy té ra sân.
            Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị”.

Việc làng - như một bổ sung cho “bức tranh quê” trong Tắt đèn. Theo tôi, trước 1945, cũng chưa có thiên phóng sự nào cho ta biết được nhiều đến thế về bộ mặt nông thôn trong tận chiều sâu những cội rễ của cả hai mặt phong tục và hủ tục, nó tồn tại dai dẳng đến thế, không chỉ đến thời Ngô Tất Tố viết Việc làng, cả cho đến hôm nay. Và do thế, bên cạnh giá trị văn học, tác phẩm của Ngô Tất Tố còn chứa đựng biết bao giá trị khác, mà các bộ môn khoa học như Văn hoá học, Xã hội học, Phong tục học, Dân tộc học cần phải tìm đến như những tài liệu tin cậy.

Cuối cùng, câu hỏi đặt ra là do đâu mà nhà Nho đầu xứ Ngô Tất Tố - người có tuổi cao nhất trong số những người mở đường xây nền móng, lại có thể cùng với các thế hệ đến sau leo lên được những tầng cao nhất của giàn giáo công trường văn xuôi quốc ngữ hiện đại Việt Nam? Câu trả lời, theo tôi nghĩ, đó là bởi ông có một nền móng văn hoá sâu sắc nằm trong cái vốn tri thức thâm hậu của một nhà Nho có đầu óc phê phán; và là người luôn luôn biết mài rũa khối tri thức đó trong đời sống báo chí đương đại. Ở đây văn và báo, thời cuộc và thời sự là gắn bó mật thiết với nhau làm nên bản lĩnh và bản sắc Ngô Tất Tố. Tất nhiên, trên tất cả, hoặc sau tất cả cái vốn tri thức đến từ trường đời và sách vở ấy là một trí thức biết gắn bó, đồng cảm và chia sẻ đến tận cùng mọi buồn vui, khổ đau của nhân dân, của quê hương và đất nước.

Đó là điều khiến cho Ngô Tất Tố, không chỉ là người tiền trạm, người chuyển giao, mà là người đồng thời với chúng ta.
Tính hiện đại, nơi một nhà Nho đầu xứ - đó là nét đặc sắc trong chân dung nhà báo, nhà văn, nhà văn hoá Ngô Tất Tố.

Thái Hà, Chủ nhật 19-10-2003
P.L
(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.

  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)