Ngô Đức Tiến và tập thơ “Nước mắt gừng”

14:25 07/04/2009
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

Anh làm thơ
Không giống như mẹ như cha
Cuốc cày theo mùa vụ
Thức trắng đêm
Như vạc
Như cò
Lúc lên đồng anh hát vu vơ...
Muốn có vài câu để có thể khiêm tốn tự nhận là “hát vu vơ” thì nhà thơ đã phải “thức trắng đêm như vạc, như cò”. Nghề thơ khắt khe, nghiệt ngã thử thách những tấm lòng tâm huyết.

Thơ Ngô Đức Tiến có vẻ ngoài chân, mộc và giản dị nhưng ẩn chứa bên trong là những tình cảm chân thành. Ngay cả sự giản dị đó cũng nên được nhìn nhận như là những vẻ đẹp đã vượt qua tính trang sức, hoa mỹ của ngôn từ.
Con gái làng Nồi
Tháng ngày Bộng Vẹo
Bộng Vẹo là một danh từ riêng, tên một vùng đất. Nhưng, dưới ngòi bút của Ngô Đức Tiến bỗng nhiên hai từ đó biến thành một hình dung từ rất ám ảnh, khơi gợi về dáng nét thân thể của những cô gái lao động bùn đất ở vùng quê này. Tại sao có phép biến hoá đó? Truy nguyên ra thì cũng ở tấm lòng của nhà thơ. Nhà thơ yêu mến và cảm thông với những người lao động nên từ ngữ trong thơ mới có phép liên tưởng và biến hoá tự nhiên như vậy. Tôi không nói đấy là câu thơ hay mà chỉ muốn lưu ý bạn đọc về cái vẻ bề ngoài và cái ẩn chứa bên trong khi tiếp xúc với thơ Ngô Đức Tiến. Ngoài ra, sự liên tưởng trong thơ Ngô Đức Tiến có nhiều cái khác lạ, có thể nói là mới mẻ, táo bạo.
Nồi đất thì tròn
Vồng ngực em bên đầy bên lép

Sau khi viết “Bên đầy giành cho con” thì khá bất ngờ, anh viết tiếp: “Bên lép để cho chồng”.
Nhưng bất ngờ hơn là hai câu này:
Ai chưa chồng
Để thiên hạ nhìn nghiêng
Vậy là vồng ngực phụ nữ ngoài những giá trị tất yếu cho chồng, cho con, Ngô Đức Tiến còn đẩy sự việc đến một giá trị khác. Đó là món quà của thượng đế đầy đặn vẻ đẹp trong mắt nhìn nghiêng của tất cả mọi người. Vồng ngực phụ nữ đã “lên ngôi” trong mắt nhìn và trong thơ Ngô Đức Tiến.

Đã từng là một giáo viên dạy văn, sau đó Ngô Đức Tiến đi làm nhiệm vụ giáo dục ở chiến trường B theo tiếng gọi của đất nước. Đến ngày thống nhất, anh trở về quê hương và tiếp tục gắn bó sâu đậm với mảnh đất, con người nơi anh đã sinh ra và lớn lên. Hiểu đất, hiểu người bởi trách nhiệm. Thương đất, thương người bởi tấm lòng. Những tên làng, tên phố, tên núi, tên sông trong thơ anh luôn hiện lên thân thương, gần gũi và đằm thắm biết bao:
Ai cũng có sông Bùng xanh trong mắt
Có sông Bùng chấp chới cánh cò bay

Tôi gặp trong thơ anh đất “Đông Yên nhị huyện” những kẻ Gám, kẻ Găng, kẻ Vĩnh, kẻ Cuồi, kẻ Vạn... Những “Đường 38 mặn mòi hai chiều gió” những “Tiếng còi thổn thức một đêm Sy”. Tôi từng yêu tiếng còi tàu trong đêm khuya ở những ga lẻ, phố huyện từng được tái hiện trong truyện ngắn của Thạch Lam. Nay lại gặp một phố huyện đang được hình thành trong thời đại mới, cơ chế mới.
Nhà cao tầng thấp thoáng bóng tre xanh
Mảnh ruộng chia đôi
Người quạt Nhật, quạt Tàu
Người quạt mo phe phẩy gió
Người viết sách soạn bài bên ngọn đèn hạt đỗ
Người bia rượu xập xình dưới ánh điện nê-ông

Cái luộm thuộm buổi đầu ấy sao mà đáng yêu thế! Phải chăng đằng sau cái sự luộm thuộm ấy là cả một thế giới rộng mở hứa hẹn cả tương lai sáng sủa cho con đường phát triển của một vùng đất, một phố huyện? Tôi tin những ghi chép sinh động về cái buổi đầu thức giấc trở mình của vùng đất sẽ là những tư liệu quý đáng giữ lại cho người đọc về sau. Và thơ Ngô Đức Tiến có nhiều những ghi chép như thế.

Nhớ lại một ngày ở Huế - Festival thơ Huế - Ngô Đức Tiến mang đến cho bạn bè một can rượu trắng. Tôi gọi đêm ấy là “đêm rượu nếp Yên Thành và thơ Huế”. Anh Tiến ít nói. Anh chưa bao giờ là chủ hội tao đàn nhưng luôn là người trong cuộc.
Những gì lặn vào thơ
Là điều không thể nói
Chuyện nghĩa tình chắp nối...
Ta uống và ta say
Men lòng thời trẻ dại
Bây giờ dù xa ngái
Thôi đừng trách chi nhau
Hạnh phúc và khổ đau
Lại tìm về kỷ niệm
Lại tìm trong sâu thẳm
Những mất còn trong nhau...

Đúng thế, những gì lặn vào thơ là điều không dễ nói. Những gì thơ anh Tiến có sẽ ở lại trong lòng bạn đọc. Với tình cảm chân thành, xin lấy câu thơ của anh để mừng anh nhân dịp tập thơ Nước mắt gừng ra mắt bạn đọc.
Trong lành mạch nước giếng khơi
Và long lanh một khoảng trời tháng giêng
Vinh, tháng 1/2005
T.Q
(199/09-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.