HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
Thuốc Cẩm Lệ là thuốc rời, muốn hút phải vốc một loại ít quấn vào tờ giấy quyến, vấn như hình sâu kèn, người lao động, nông dân vấn điếu to bằng ngón tay, người trí thức sang cả chỉ vấn thanh cảnh, nhỏ như sâu kèn thôi. Hút chỉ 3 phần tư điếu thuốc, phần còn lại gọi là tàn thuốc thường dán lên cột nhà, dán dưới phản gỗ v.v..., người nghèo khó không có tiền mua thuốc phải đi lột những tàn thuốc ấy, gom 3, 4 tàn lại thì quấn được một điếu hút cho đỡ ghiền.
Có điều lạ, thuốc Cẩm Lệ vốn nổi tiếng không những ở Huế mà tiếng tăm còn lan xa đến Quảng Trị, Quảng Bình vào tận Quảng Nam, Quảng Ngãi. Mỗi khi có dịp đi Huế hoặc có ai đi Huế đều gởi gắm mua vài lượng thuốc Cẩm Lệ coi là món quà quý giá. Nhưng thuốc Cẩm Lệ ấy lại không phải do đất Huế trồng nên mà gốc gác thuốc ngon là do trồng ở đất Quảng Nam, làng Cẩm Lệ là thuốc thượng hạng. Nhưng nghịch lý là đất Quảng Nam trồng được thuốc ngon, mà không bài chế thành thuốc ngon đặc biệt như ở Huế, cho nên họ thường trồng cây thuốc, hái lá thuốc, hong phơi khô, đóng thành kiện rồi “xuất khẩu” ra Huế, người mua về, có kỹ thuật chế biến riêng thành thứ thuốc có hương vị, phẩm chất độc đáo, không nơi nào có được, và trở thành món hàng quý Thuốc Cẩm Lệ Huế.
Thật ra không phải ở Huế ai cũng bào chế được đâu. Người đầu tiên tìm ra cách bào chế độc đáo, ngon nổi tiếng, đến tận bây giờ, những ông bà già ngoài 80 vẫn còn nhắc đến tên tuổi, đó là bà Cửu Mai ở đầu đường bờ Hột Mát, bây giờ là đường Bạch Đằng. Ngôi nhà số 10 đường Bạch Đằng là gốc gác gia truyền nghề thuốc Cẩm Lệ, trải qua nhiều đời và giàu có nổi tiếng nhờ vào công thức chế biến thuốc Cẩm Lệ ấy, đến đời thứ 4 thì bỏ nghề, vì con cháu lo học hành, lấy vợ lấy chồng ở xa, làm các ngành nghề khác nên không còn tiếp tục làm thuốc Cẩm Lệ nữa.
Thuở ấy, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 chỉ mới có một nhà làm thuốc Cẩm Lệ là bà Cửu Mai, người làng Vân Thê mà thôi, vài chục năm sau, một số người bắt chước làm theo và cũng nổi tiếng đó là bà Cửu Ới ở Gia Hội, đời con là chị Hàm ở Trần Hưng Đạo, gia đình này là họ hàng, cùng làng Vân Thê với bà Cửu Mai, nên làm theo công thức của bà Cửu Mai, còn có bà Bửu Hoàng ở cửa Đông Ba là cháu bà Cửu Mai, rồi tới mụ Thôi ở gần đường Ngự Viên, cô Phòng ở chợ Đông Ba, mụ Cháu ở An Cựu v.v... đều là thế hệ đi sau bà Cửu Mai cả.
Đến nay nghề thuốc Cẩm Lệ ở Huế đã thất truyền, mọi người đều hút thuốc điếu gọi là thuốc tây, không phiền phức phải vấn sâu kèn, thuốc tây mua đâu cũng có, dễ dàng, tiện lợi hơn. Tuy nhiên nhiều người vẫn còn nhớ hương vị độc đáo của thuốc Cẩm Lệ. Để nhớ đến người khai sơn phá thạch nghề thuốc Cẩm Lệ đã hơn trăm năm nay, nhớ ơn bà cố nội Cửu Mai của dòng họ tôi, nhớ bà mà con cháu giàu có, nhiều ruộng, lắm nhà, được dân Huế còn mãi nhớ tên bà và không quên sản nghiệp của bà vang danh một thuở. Có lẽ cả dòng họ chỉ còn tôi là người duy nhất còn nhớ được cái công thức chế biến thuốc Cẩm Lệ. Tôi viết lại bài này, trước hết là để thắp một nén nhang trầm và một lời tri ân đến Bà Cố của dòng họ tôi, thứ hai là ghi lại một nghề đã thất truyền, chẳng còn ai biết nữa. Tôi không có ý đồ làm sống lại một nghề đã thất truyền, nhất là nghề làm thuốc Cẩm Lệ, rất có hại cho sức khỏe, nó cũng gần như một loại thuốc nghiện, nặng hơn thuốc lá điếu, nặng hơn cả thuốc Lào bây giờ.
Ở Huế không trồng được cây thuốc ngon như đất Cẩm Lệ ở Quảng Nam, nhưng ở Quảng Nam không bào chế được thành một loại thuốc ngon độc đáo bằng ở Huế. Do vậy, đến mùa hái lá thuốc, hong phơi xong, đóng thành từng kiện lớn khoảng 100 kilô, rồi chở cả xe tải ra Huế bán. Ở Huế coi thuốc, thử thuốc loại ngon số 1 hay số 2, ngả giá xong, mua cả xe tải, chất vào kho thuốc để chế biến dần quanh năm. Có những tốp thợ làm thuốc, cuốn thuốc đến nhà, lấy thuốc từ kho ra, xổ thuốc phân loại, loại lá to để riêng làm lá áo, loại lá nhỏ, lá nhánh để riêng làm ruột. Lá áo được làm cẩn thận, tước rất khéo tay để nguyên lá không bị rách, còn cọng ở giữa lấy nguyên vẹn ra riêng, bó thành từng bó khoảng và ký lô (cọng nghĩa là cái sóng lá). Lá nhánh, lá nhỏ, được tước ra để riêng từng đống, cọng cũng để riêng. Người ta thường nấu loại cọng thuốc trong nồi rất lớn hoặc một cái thùng phuy, nấu cho đến khi nước còn ít, đặc lại, lúc bấy giờ để loại nước cốt này cho nguội, lá thuốc đã tước đánh thành đống trên nền nhà xi-măng đã lau sạch, dùng nước cốt rảy vào, xóc xới cho tơi khi nước cốt thấm vào thuốc dịu tay là được, đó là ruột thuốc. Có lá lớn để riêng làm áo cũng rảy nước cốt cho dịu, để riêng làm áo. Cứ vài ba lá trải ra, cuốn dần ruột thuốc theo hình tròn, dài mãi ra, cuốn khoanh tròn như bánh pháo, mỗi khoanh thuốc khoảng vài ký lô, mỗi đợt cuốn thuốc có khoảng vài chục khoanh chất chồng cao lên, để khỏi khô, người ta lấy lá chuối tươi quấn chung quanh. Như thế là tốp thợ làm thuốc đã xong. Đến giai đoạn xắt thuốc, có thợ xắt riêng, có bàn xắt, dao xắt là một dao yếm to để xắt lát thuốc mỏng và đều, xắt đến đâu, cuốn thuốc mở ra dần cho đến hết, thuốc xắt vào quả thuốc xây tròn cho thuốc đều khắp quả, về sau có máy xắt thuốc nhanh hơn. Quả cũng lót lá chuối tươi, quả đầy cũng được đậy lá chuối tươi như thế thuốc còn mềm mại không bị khô, thuốc khô hút khét mất hương vị ngon. Người bán thường cân thuốc bằng cái cân như cân thuốc Bắc, gói thuốc bằng lá chuối tươi bên ngoài, bên trong lót lá chuối khô, gói thuốc kèm theo vài dung giấy quyến để người hút tự xé một mảnh giấy quyến hình chữ nhật, vốc một ít thuốc cho vào và cuốn theo hình sâu kèn. Loại thuốc ấy hút rất nghiện. Giai đoạn về sau có nhiều nhà chế biến còn muốn cho người hút nghiện hơn nữa, họ còn dã tâm cho cả xái thuốc phiện và nồi nấu cọng để rảy lên lá thuốc.
Khoảng từ 30 năm nay nghề thuốc Cẩm Lệ đã không còn nữa, những hàng bán thuốc ở Huế không thấy ai nhắc tới nữa. Một nghề đã thất truyền hoàn toàn, còn chăng là ký ức của những người già còn nhớ lại thôi.
H.H.T
(SDB11/12-13)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.