Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Nhật Minh- Người kể sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh

16:13 12/03/2009
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

Tôi đánh bạn với anh Đặng Nhật Minh từ sau Hiệp định Paris, đến nay kể đã gần 30 năm. Trong cuộc đời tan hợp vô thường này, được gìn giữ một tình bạn trong bằng ấy thời gian, âu cũng là một điều vạn hạnh của đời người. Hồi năm 1980, tôi đang trú tại nhà sáng tác của Hội Nhà văn ở Quảng Bá, thì anh Đặng Nhật Minh mang cho tôi một tấm danh thiếp của nhà thơ Cù Huy Cận, kêu gọi sự cộng tác với xưởng phim truyện trong việc viết lời bình cho phim Nguyễn Trãi do anh Đặng Nhật Minh làm đạo diễn. Những ngày ấy, suốt ngày tôi cặm cụi một mình. Anh Đặng Nhật Minh là người Hà Nội gốc Huế duy nhất ghé vào chơi với tôi ở Quảng Bá, với những thước phim tài liệu vừa quay được về Nguyễn Trãi. Tôi thực sự làm quen với điện ảnh Việt từ ngày ấy; tất cả qua anh Đặng Nhật Minh. Thành thật thú nhận rằng đấy là một người bạn luôn luôn mang đến cho tâm hồn tôi sự dễ chịu, cùng với niềm kính trọng trong công việc. Tiếp theo đó, theo lời mời của anh Đặng Nhật Minh, tôi theo đoàn làm phim "Thị xã trong tầm tay" lên Lạng Sơn, phim do anh Đặng Nhật Minh viết kịch bản và đạo diễn. Thị xã Lạng Sơn vắng hoe sau chiến tranh biên giới, và tôi với anh Minh có những giờ ngồi trò chuyện bên nhau trong những quán cóc còn sót lại bên đường. Tôi ăn ở với đoàn làm phim trong một nhà trường đang đóng cửa ở Lạng Sơn, ở đó, vào mỗi sáng tinh sương đầy tiếng chim rừng, người cán bộ phụ trách âm thanh của xưởng phim lại dùng một con sào có buộc chiếc máy ghi âm ở đầu ngọn tìm đến, gióng cây sào lên trên những ngọn cây lớn trong vườn để thu tiếng chim hót làm của dự trữ cho xưởng phim. Đây là cuốn phim truyện đầu tay của anh Đặng Nhật Minh và suốt đời, anh chỉ làm những cuốn phim do chính anh viết kịch bản và làm đạo diễn.

Ngay từ đầu, Đặng Nhật Minh đã tỏ ra là một nhà đạo diễn quyết liệt trong ý đồ nghệ thuật của mình. Tôi cho rằng đó là sự biểu hiện của bản lĩnh, và của lòng tự tin nghề nghiệp, tuy hơi có vẻ cứng rắn nhưng lại rất cần thiết ở nghề điện ảnh của Đặng Nhật Minh, ở đó những ý kiến sáng tạo luôn dễ bị thay đổi bởi những yếu tố khó khăn bên ngoài. Ví dụ, trong kịch bản Nguyễn Trãi ban đầu của Đặng Nhật Minh, có hình ảnh của một con ngựa ở ải Chi Lăng. Thấy anh cứ đi ra đi vào, băn khoăn mãi không dứt, tôi bèn hỏi và được anh cho biết, một cuộc họp đoàn làm phim đề nghị phải sửa chữa kịch bản đem một con bò thay cho con ngựa, vì ở ải Chi Lăng bấy giờ, bên "đạo cụ" đi lùng sục mãi mới tìm thấy một con ngựa, và chủ nhà nhất định không cho thuê nếu để đoàn làm phim giết chết con ngựa vốn dùng để chuyên chở. Nhưng Đặng Nhật Minh không chịu để cho thay thế ngựa bằng bò, làm như thế thì kịch bản "chống Minh" chẳng còn ý nghĩa gì. Thay vì một con ngựa chết, tác giả chịu sửa đổi thành một con ngựa bị thương. Xem lại phim, tôi thấy Đặng Nhật Minh đã có lý, vì nếu chỗ ấy lại là một con bò thì không biết cuốn phim "Nguyễn Trãi" sẽ ra thế nào... Sau cuốn phim tài liệu nghệ thuật Nguyễn Trãi, Đặng Nhật Minh chuyển hẳn qua nghề đạo diễn, và bắt tay vào làm cuốn phim truyện đầu tiên "Thị xã trong tầm tay". Hình ảnh quán xuyến của bộ phim nhựa này là một thành phố biên giới đổ nát làm bối cảnh cho một chuyện tình chung thuỷ và nỗi đợi chờ lặng lẽ. Tôi đọc thấy ở đây ý đồ xuyên suốt của đạo diễn là, một hạnh phúc tạo nên bởi sự hàn gắn thay vì là lòng hận thù, chính là hạnh phúc tìm thấy một tâm hồn Việt Nam, băng qua những đổ vỡ. Đúng như hình tượng mở đầu trong bộ phim "Nguyễn Trãi": Bằng thủ pháp điện ảnh, Đặng Nhật Minh đã tạo nên một chiếc lọ cổ lớn bằng những mảnh gốm vỡ tan mà lịch sử khắc nghiệt đã gây nên.

Tiếp đến là phim "Bao giờ cho đến tháng mười" nói về số phận của một cô giáo có chồng ra mặt trận trong chiến tranh chống Mỹ. Tôi nghĩ rằng "chinh phụ" chính là một hình tượng điển hình số một của dân tộc Việt Nam, trên một đất nước chìm đắm triền miên trong chiến tranh, từ lập quốc đến nay. Sẽ không ngoa nếu bảo rằng "Bao giờ cho đến tháng mười" là một tác phẩm "Chinh phụ ngâm" của thế kỷ 20, không phải chỉ riêng của dân tộc Việt Nam, mà của cả nhân loại. Nó đem về cho tác giả nhiều lời khen tặng của điện ảnh năm châu, và được mời chiếu khai mạc trung tâm văn hoá Pompidou ở Paris , với sự có mặt của tổng thống Pháp Frăngxoa Mítxtơrăng. Tiếp theo là phim "Cô gái trên sông", lời tuyên án của tác giả bảo vệ những số phận "bị đời vui hất hủi" và có lẽ cũng là một mảnh tâm huyết của Đặng Nhật Minh dành cho thành phố chôn rau cắt rốn. Phim "Thương nhớ đồng quê" là vấn đề đạo lý đặt ra trước lương tâm người Việt Nam, trước một vùng nông thôn đã chịu quá nhiều hy sinh trong chiến tranh, Ở đây, phẩm chất của người nông dân Việt Nam được tác giả khắc hoạ rất chân thực và rất trân trọng, phẩm chất mà họ đã đánh đổi bằng giá của máu. Tiếp đến là cuốn phim lịch sử "Hà Nội mùa đông năm 1946" trong đó tác giả cố gắng phản ánh vai trò lãnh đạo của Hồ Chủ tịch đối diện với những nhiệm vụ lịch sử trọng đại. Mặc dù lúc bộ phim mới ra đời, những kẻ có ý đồ xấu cố tình tung ra một dư luận không mấy thiện chí về phía tác giả, song tôi vẫn tin rằng một lần nữa, "Hà Nội mùa đông năm 1946" thể hiện cách xử lý vấn đề rất thông minh của tác giả Đặng Nhật Minh, bởi không ai có thể thuật lại bấy nhiêu sự kiện lịch sử trọng đại tóm gọn trong bấy nhiêu thời gian (một suất chiếu phim).

Cuối cùng, là phim "Mùa ổi" nhắc nhở cho biết rằng có những vật ngỡ là bình thường nhưng người ta vẫn phải bảo vệ như một di sản. Thông qua chuỗi phim truyện liệt kê trên đây, đạo diễn Đặng Nhật Minh đã bền bỉ đi hết con đường gian lao của nghệ thuật, để khắc hoạ những vấn đề đặc trưng trong từng thời điểm của lịch sử hiện đại. Nói rõ hơn, phải đợi hết trận mạc, nhà điện ảnh mới có điều kiện quay lại một vấn đề vẫn canh cánh bên lòng; ấy là số phận của người phụ nữ Việt trên một đất nước đánh giặc. "Thị xã trong tầm tay" không ngờ lại là một lời cảnh cáo đánh thức sự cảnh giác cho mọi người "Hỡi nhân loại, hãy cảnh giác!". "Cô gái trên sông" lại nhắc nhở những người của một thời đừng quên lời thề. "Thương nhớ đồng quê" giải thích nỗi lòng khôn nguôi đối với một mảnh đất đã từng lặn lội. "Hà Nội mùa đông năm 1946" nhắc người ta nhớ lại những tháng ngày đầu mối của các sự kiện lịch sử. Và mới đây "Mùa ổi", như một lời căn dặn đặt trước lương tâm của mỗi con người.

Cuốn phim sau bao giờ cũng mang ý nghĩa tiếp nối của cuốn phim trước, trong chuỗi xích của các sự kiện lịch sử. Có thể nói rằng suốt một đời đánh bạn với máy quay phim, Đặng Nhật Minh đã chăm chú tổng kết lịch sử. Anh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh.

Mỗi cuốn phim của đạo diễn Đặng Nhật Minh thực hiện không chỉ là một món hàng giải trí thuần tuý, mà là một lời tuyên ngôn của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Tôi tâm lĩnh ý hướng nghệ thuật của Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Nhật Minh: sự trung thành không mỏi đối với sứ mệnh "lập ngôn" của người nghệ sĩ trước thời đại của mình.

                Huế, 10/10/2002
                     H.P.N.T
(168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • CHÍ CÔNGNghe xã ấy chuẩn bị gặt chiêm, làm được nghĩa vụ lương thực, thuế nông nghiệp và hè thu 1983 sớm hơn các nơi khác, tôi cùng hai cán bộ cơ quan đi về đấy rút kinh nghiệm để có kế hoạch tuyên truyền sát thực tế.

  • VĨNH QUYỀNXe vượt qua một khúc quanh, màu lúa xanh rờn đột ngột hiện ra phía trước. Chúng tôi vừa để lại đằng sau thành phố Huế cổ kính. Hai ngày qua, chúng tôi đã đi thăm và làm việc ở đấy.

  • ĐẶNG THỊ HẠNH                 Tùy bútVề cái thị xã cỏn con mà chúng tôi đến vào cuối đông năm ấy, ký ức tôi giữ lại còn bị giới hạn hơn nữa, do bao giờ không gian về một nơi nào đó ta giữ lại từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, cuối cùng cứ hẹp dần lại để chỉ còn rút lại ở không gian ta quen thuộc nhất.

  • PHAN THỊ THU QUỲCách đây trên 80 năm, trên con đường làng ấy, đến tết, dưới hai bụi tre Là Ngà mát mẻ người ta thường đánh bài chòi. Một công tử họ Phan ở làng Đốc Sơ làm trong triều nội với chức Hàn lâm viện Biên tu, và một thiếu nữ họ Bùi con nhà giàu làng Đốc Bưu, ngồi bên chòi thành hai phe. Hễ công tử đi một con bài thì thiếu nữ trúng và ngược lại.

  • HÀ THÀNHChúng tôi chuẩn bị hành trang theo đoàn công tác đặc biệt của tỉnh Thừa Thiên Huế, sang làm việc với tỉnh Xa-ra-van nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Để chuẩn bị đón nhận các hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh ở chiến trường Lào về nước.

  • ĐỖ NGỌC YÊN(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)Vào một sáng đầu thu, tôi tìm đến khu tập thể Trung Tự, Hà Nội, nơi nhà văn Bùi Hiển đang sống cùng con cháu. Ông là một trong số những người đầu tiên tham gia thành lập Phân hội Văn nghệ Thừa Thiên tháng 10 năm 1950, tổ chức tiền thân của Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế hiện nay.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Hồi ký(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)

  • VŨ ĐÌNH HÒE       Trích đoạn trong cuốn Hồi ký "Pháp quyền - Nhân nghĩa Hồ Chí Minh".

  • THÁI KIM LAN       Viết tặng Lisa Eder

  • PHẠM NGỌC CẢNH                        Bút ký Sau này tôi mới biết cụ Đỗ Tất Lợi. Dành dụm mãi tiền sinh hoạt phí của một anh lính, tôi ra cửa hàng sách quốc văn. Mua một cuốn Nam dược... về đặt đầu giường như cái gối. Gối lên những kỷ niệm về cây, về lá để nhớ thương bà. Những trang viết về cây ngải cứu, cây thạch xương bồ, cây bồ công anh hay như những bài thơ. Những trang viết về củ nghệ, củ gừng, quả mướp đắng, trái me chua phúc dày như kinh Phật.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOKim Mai thân nhớ,Ngày giáp Tết, tôi về miền thơ ấu. Cây đa cổ thụ, ngôi miếu rêu phong vẫn đứng giữa đồng quê như đợi như chờ từ vạn kỷ.

  • NGUYỄN THẾ TƯỜNG                               Bút ký Dải đất Việt khi chạy dài vào tới miền Trung thì xép lại trong một khúc eo. Một bên là dãy Trường Sơn hùng vĩ che chắn. Một bên là biển rộng sóng vỗ bờ.

  • NINH GIANG THU CÚC                         Ghi chép Thuở còn bé tí tẹo tôi thường được người lớn kể cho nghe chuyện một anh chồng Cọp đi rước Cô mụ (nữ hộ sinh) cho chị vợ đang đau bụng đẻ.

  • TRÍ NHÂN       Truyện kýNăm 1954, đa số cán bộ, đảng viên ở chiến trường miền đều tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ. Chỉ có một số ít cán bộ, đảng viên cốt cán được bố trí ở lại trong vùng tạm chiếm để xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức lực lượng đề phòng địch phá hoại Hiệp định đình chiến.

  • NHẤT LÂM         Bút ký Năm 1948, từ đồng bằng huyện Triệu Phong, chúng tôi vượt quốc lộ 1A lên một xã miền núi, xã Phong An. Hồi ấy rừng bạt ngàn vô tận, xã Phong An chỉ cách thị xã Quảng Trị chừng mười cây số, do núi rừng ngút ngàn, mà trở nên xa vời như xứ sở lạ lùng ngàn dặm. Chúng tôi bảo nhau: đề phòng cọp từ bụi rậm vồ tươi như đùa. Nhìn núi cao và cây rừng trùng điệp, con người trở nên hồi hộp, lo sợ mơ hồ; lại đi ban đêm, đi lần đầu giữa rừng, sợ là tất nhiên.

  • HƯƠNG GIANG(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • HOÀI NGUYÊNTiếng tiêu trầm của nỗi cô đơn...

  • TRUNG SƠNTrong số những con vật gần gũi với con người, con mèo không đứng vị trí thứ nhất thì cũng nhì. Chỉ riêng việc chú mèo có đặc quyền thỉnh thoảng "chung chăn" với con người lúc trời mưa rét cũng đủ để xếp chú đứng ở thứ bậc cao trong mối quan hệ với con người. Cũng vì vậy, trong thành ngữ và tục ngữ có nhiều câu nói đến con mèo ngẫm ra khá thú vị.

  • ĐOÀN MINH TUẤN                     Tùy bútĐã từ lâu lắm, nhiều mùa xuân đã qua, nhà văn Đoàn Giỏi có cho tôi mượn cuốn sách rất hay viết về "chó và mèo trên thế giới" của hai tác giả người Pháp Marlyse et Frange.

  • NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".