Nghe đêm

09:39 14/07/2017

NGUYÊN HƯƠNG
            Tạp bút

Bóng đêm như một ẩn dụ về tri kỷ. Chỉ cần im lặng thấu hiểu mà không đòi hỏi được nghe lời thề thốt thanh minh.

Minh họa: Nhím

Chấp nhận được nhớ đến trong khoảnh khắc muộn nhất của ngày khi ta đã trần mình chán chê cùng ánh sáng. Đêm là thời khắc duy nhất mà ta có thể uống say, khóc lịm, buông xuống mọi xấu hổ và bí mật. Giữa ta và đêm, là sự nhuần nhị và trinh bạch về nhau.

Trong sương, thành phố như một người đàn bà nạ dòng sau cơn đau nặng. Xanh xao, yếu ớt nhưng đôi mắt ẩn chứa bao điều trắc ẩn. Huế không phải là một thành phố sống về đêm nhưng hồn cốt xứ Huế lại thuộc về đêm, vì có những câu chuyện ta không thể nhìn thấy khi Huế giữa ban ngày mà chỉ thực sự thấy khi Huế đã tàn ngày. Đứng ở một góc đường nhìn lên cái chuồng chim bằng gỗ, cảm giác mọi mệt mỏi âu lo đã thực sự được gác lại để sắm một giấc ngủ vùi. Tay nhỏ loay hoay điếu thuốc hút dở, ta dạt về những nơi chốn là dấu xưa của Huế rồi bị khóa lại bằng ý nghĩ về một mảng màu tối sẫm và sâu hun hút. Sương buông đẫm trên quả phượng rụng ven đường. Bóng tối xuống chậm nhưng không trễ. Đêm sẽ đến đúng giờ.

Kể từ giây phút ấy, hiểu hơn lời thỉnh cầu thật thà bé mọn của Nguyên Sa “Và đêm ơi, xin cứ dài vô tận”.

Sự vô tận ấy, ta biết chỉ là một nỗi hoang đường không có thực bởi tiếng chim rúc mưa chờ sáng dội vào tai những thanh âm dồn nén chờ đợi hằng hà. Nhưng một khi thuộc về đêm, bỗng dưng ta không biết mình đang đi đâu, trên con đường nào, năm nay là năm mấy mà chỉ có duy nhất bóng tối khi ấy là thật nhất. Ta sẽ đứng co cụm ở cột đèn đường để chờ một hơi thở hiện ra. Mãi rồi cũng xuất hiện. Bóng người như một chấm nhỏ giữa lòng đường, mái tóc đen nhánh sây dài phát ra vệt ánh sáng màu lam sẫm, như dấu chỉ về một cánh vạc đã vẫy tay xa. Cùng lúc, những con đom đóm đốt đèn nhảy múa, ca tụng và nảy nở sinh sôi. Chúng dường như đã vùi mình trong những bình minh tối ẩm chỉ để đợi thời khắc này để được sống thực là mình. Trong đêm, con người và tạo vật như được sống trong một bầu khí quyển trinh tĩnh và bản năng nhất, không giấu diếm càng không có nhu cầu thanh minh. Đêm phơi phóng những phũ phàng và tàn khốc của mất mát, cạn kiệt, chia ly... và biến những điều ấy thành thời gian và hồi ức cần được chạm tới. Đó là dấu vết của điểm tận cùng.

Vào giờ khắc của đêm, khi những diễn văn tung hô đã hết phiên lưu trú, ta bám trụ vào hơi thở yếu ớt để nghe sự động đậy cựa mình của những phận mỏng không tên. Lao công ấy là một người nữ, nhân dáng mảnh nhỏ, tóc dài vấn sau mảnh khăn bông trắng. Người không bịt khẩu trang bảo vệ, khuôn mặt không khắc khổ mà đầy đặn, lặng lẽ một vẻ trầm tư bí mật. Vì bí mật nên gợi cảm. Cánh tay đưa chổi khoan thai, không vội vàng, không chậm rãi, thể như không gian này chỉ có người và những chiếc lá còn sót lại của ngày. Miệng nhỏ nhẹ hát những âm thanh đứt quãng, yếu ớt mà sao cảm giác đủ sức phát ra năng lượng cho cả con phố u buồn. Đứng chôn chân ở góc đường để nhìn người quét xong đám lá, ta không dám lại gần bắt chuyện vì sợ làm mất đi sự tự nhiên và cô đơn quý giá ấy của người lao công đẹp. Thọc tay túi quần bước đi, lòng nghĩ hoài về người phụ nữ làm công việc đêm khuya vất vả, khi cả thành phố đã ngủ yên mà người vẫn không hề gợn lên một sự mệt mỏi hay bi quan nào, mà trái lại cứ điềm tĩnh dịu dàng như nhất?

Bởi chính đêm cũng không hiểu hết sự nữ tính của mình.

Đêm là thời khắc thuộc về mặt trăng, mang màu âm tính, là cái đẹp trễ nải, là đàn bà. Lần theo đường đi của sông An Cựu, ý nghĩ và ánh mắt gọi tên những làn khói Cẩm Lệ được nhả mê sảng vào không trung. Mái đầu ấy không còn xanh, ngón tay kẹp cuộn thuốc phì phèo nhỏ giọt. Phì phèo cho người cảm giác được phóng thoát mình, phóng thoát những ứ đọng của cảm xúc và lý trí. Khi người phì phèo, người thấy xung quanh thuộc về sự chiếm lĩnh của làn khói, với những đường vân run bần bật lẫn vào không trung. Khi ấy, người cảm nhận được hình hài của nỗi buồn và thậm chí, cả những tuyệt vọng sỗ sàng mà người vừa được nhận lấy. Khói thuốc giống như một thứ xung năng mê man và dào dạt, khỏa lấp muộn phiền và gọi tên vẻ đẹp của sự quên lãng bâng quơ. Bởi lẽ, quên khó hơn nhớ rất nhiều.

Ta lân la ngồi cạnh người, nhận ra vẻ đẹp cô độc như hương khói ở ngôi chùa nhỏ nằm sâu trong núi rừng miên viễn. Chỉ có thể nhìn thấy như một vệt màu đã chịu nhiều va đập của thời gian và hoàn toàn không có nhu cầu phát sáng. Người than phiền về sự buồn tẻ của đời mình, về những được mất nổi nênh sau nhiều chục năm sống làm một kiếp nữ nhân thường thấy. Bởi chẳng ai có thể dám chắc mình hiểu được gánh nặng của kẻ tự mang nên người mãi mãi ngồi một bóng ở bậc thềm thở dài để uống cạn đời mình và đời nhìn người rỗng không. Châm điếu thuốc, người nói về những thứ đã thực sự rời khỏi tay mình: tuổi xuân, hạnh phúc, sự dịu dàng. Đột nhiên người bảo, tôi thấy mình lạ lắm, lòng tôi tràn ngập nỗi cô độc nhưng sao tôi lại thấy trống rỗng thế này hả cô? Ta không biết nói với người ra sao, chỉ biết im lặng nhìn mái tóc lơ phơ vài ba sợi bạc ấy.

Những khi ấy, hồn kẻ lữ khách cứ tự dưng hoài niệm những điều không thuộc về mình. Muốn chạm tay vào từng mảng tường rêu cũ để cảm nhận đường đi của thời gian, hình dung tiếng trẻ nhỏ vui đùa, tiếng rao hàng ăn buổi sớm, tiếng xe máy kỳ cạch lách nhau để về nhà lúc cuối ngày... Ẩn sau những tiết tấu đời thường ấy, còn có cả tiếng hoa nở thơm tho và tiếng gió lay chuyển khi sang mùa nữa.

Chớm hạ, đêm tan vào những tàng lá xanh non. Rảo bước chầm chậm trên cầu Trường Tiền, thấy mọi phố xá nhà cao trở nên vô hình mà chỉ thấy ngăn ngắt một mặt sông phẳng lặng, mềm mại khi trời chìm sâu trong đêm tịch mịch. Ta đã nhiều lần đứng trên cầu và nhìn xuống dòng sông nhưng chưa khi nào thấy mặt sông hiền hòa thẳm sâu đến thế. Trong im lặng của mùa, Trường Tiền và Hương Giang như một chỉnh thể vĩnh hằng của tạo hóa, được bảo bọc bởi tấm áo mỏng tang như giấy dó của khí hạ đang dâng, say sưa dựa dẫm vào nhau và như là nguyên ủy của mọi cảm hứng văn học nghệ thuật đất này. Chỉnh thể ấy hoàn nguyên một đôi tri âm tri kỷ, chỉ duy, mãi mãi thuộc về xứ Huế mà thôi.

Có tiếng gõ mái thuyền đuổi cá khoan nhặt trên sông, như mách bảo một cuộc đời ngư phủ suốt đời lênh đênh sông nước. Mặt người khi mờ khi tỏ bên ánh đèn leo lét chỉ đường, đôi cánh tay vạm vỡ đen sạm đẩy bánh lái về phía trước, rẽ sóng xô dạt hai bên. Trăng cận rằm đổ bóng xuống mui thuyền làm sáng một màu gỗ cũ, dập dềnh cùng gợn sóng nhỏ trên mặt sông. Gần gụi. Nương tựa. Người sẽ mang xâu cá tươi về nhà ít giờ nữa, để lại được ngủ một giấc bình thường.

Đêm không chỉ là một khoảng thời gian của ngày mà là một khoảnh khắc đặc biệt, thậm chí, riêng biệt. Đêm mở ra sự khô hạn của lý trí, sự trồi sụt của cảm xúc, sự nghỉ ngơi của đồng áng, sự sưng tấy của những nỗi buồn tưởng như trôi tuột dưới thung sâu... Đã có lúc ta ngấm ngầm đi về hoài mãi một con đường vắng dấu chân người chỉ để hy vọng được nghe những câu hát đã từng vô tình được nghe. Ngõ tối và sâu hun hút nhưng giọng hát ấy trong vắt ngọc tuyền mà lặng nghe thấy như tiếng khóc về một thời thanh xuân tươi đẹp đã đi qua. Tiếng hát ấy làm thức dậy sự uể oải lâm ly của hàng rêu già trước cổng, phả ra và nâng niu một dung dáng được gọi là Cố Nhân.

“Trả lại em yêu
khung trời mùa hạ
ngọn đèn hiu hiu nỗi buồn cư xá
vài giọt mưa sa hôn mềm trên má
tóc em thơm nồng
dáng em hiền hòa”


Đó là khi ta nhận ra, khóc được, ấy là một ân huệ. Thực sự đã có những lúc ta không suy nghĩ tử tế một điều gì. Khi mà trong cuộc sống này, mọi niềm vui và nỗi buồn cũng chỉ là những khoảnh khắc ăn đong, ta cứ kệ nó trôi đến đâu thì đến. Ta đã ước chi mình là người vô cảm. Không đắn đo chữ nghĩa, không nâng niu chiều chuộng những góc xám ngắt của cõi lòng, không bị câu thúc bởi nỗi run rẩy và sự lên đường. Nhiều khi, ta chỉ muốn ngồi bệt ở đống rơm để nhìn lũ rận mạt bò lồm cồm tìm lối đi. Nhưng mỗi khi chìm trong đêm Huế xanh xao hao mòn, bấy nhiêu điều mình muốn khước từ kia lại lần lượt trỗi dậy. Cảm giác như bị bắt trúng tim đen, vì hàng cây góc phố hơi cafe thơm, vì ánh đèn dầu hiu hắt trên những mẹt hàng bên Vỹ Dạ, vì tiếng rao đêm ngang Ga Huế... lẫn trong tiếng xe cộ phân khối lớn kêu gầm trời đêm đêm. Với bản thể trầm mặc vốn có, hai thái cực tĩnh động ấy thể hiện gương mặt chuyển mình của phố mà tinh thần bản thể vẫn là tiếng va chạm lanh canh chén đũa và tiếng khánh đồng ngân nga rù quến đậm chất Á Đông cận thềm chùa.

Và dẫu cho thời gian có trôi đi, vài giờ, hoặc vài năm thì điều đọng lại trong những đêm sâu ấy chính là âm thanh rì rầm, nhỏ nhặt của một đô thị rêu phong. Với một lữ khách ngụ cư, còn gì cảm động hơn là được lắng tai nghe tiếng thành quách động đậy bạc mình những đêm khó ngủ. Những điều ấy không khiến ta thêm buồn, mà thương.

N.H
(SHSDB25/06-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...

  • PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.