NGUYÊN HƯƠNG
Tạp bút
Bóng đêm như một ẩn dụ về tri kỷ. Chỉ cần im lặng thấu hiểu mà không đòi hỏi được nghe lời thề thốt thanh minh.
Minh họa: Nhím
Chấp nhận được nhớ đến trong khoảnh khắc muộn nhất của ngày khi ta đã trần mình chán chê cùng ánh sáng. Đêm là thời khắc duy nhất mà ta có thể uống say, khóc lịm, buông xuống mọi xấu hổ và bí mật. Giữa ta và đêm, là sự nhuần nhị và trinh bạch về nhau.
Trong sương, thành phố như một người đàn bà nạ dòng sau cơn đau nặng. Xanh xao, yếu ớt nhưng đôi mắt ẩn chứa bao điều trắc ẩn. Huế không phải là một thành phố sống về đêm nhưng hồn cốt xứ Huế lại thuộc về đêm, vì có những câu chuyện ta không thể nhìn thấy khi Huế giữa ban ngày mà chỉ thực sự thấy khi Huế đã tàn ngày. Đứng ở một góc đường nhìn lên cái chuồng chim bằng gỗ, cảm giác mọi mệt mỏi âu lo đã thực sự được gác lại để sắm một giấc ngủ vùi. Tay nhỏ loay hoay điếu thuốc hút dở, ta dạt về những nơi chốn là dấu xưa của Huế rồi bị khóa lại bằng ý nghĩ về một mảng màu tối sẫm và sâu hun hút. Sương buông đẫm trên quả phượng rụng ven đường. Bóng tối xuống chậm nhưng không trễ. Đêm sẽ đến đúng giờ.
Kể từ giây phút ấy, hiểu hơn lời thỉnh cầu thật thà bé mọn của Nguyên Sa “Và đêm ơi, xin cứ dài vô tận”.
Sự vô tận ấy, ta biết chỉ là một nỗi hoang đường không có thực bởi tiếng chim rúc mưa chờ sáng dội vào tai những thanh âm dồn nén chờ đợi hằng hà. Nhưng một khi thuộc về đêm, bỗng dưng ta không biết mình đang đi đâu, trên con đường nào, năm nay là năm mấy mà chỉ có duy nhất bóng tối khi ấy là thật nhất. Ta sẽ đứng co cụm ở cột đèn đường để chờ một hơi thở hiện ra. Mãi rồi cũng xuất hiện. Bóng người như một chấm nhỏ giữa lòng đường, mái tóc đen nhánh sây dài phát ra vệt ánh sáng màu lam sẫm, như dấu chỉ về một cánh vạc đã vẫy tay xa. Cùng lúc, những con đom đóm đốt đèn nhảy múa, ca tụng và nảy nở sinh sôi. Chúng dường như đã vùi mình trong những bình minh tối ẩm chỉ để đợi thời khắc này để được sống thực là mình. Trong đêm, con người và tạo vật như được sống trong một bầu khí quyển trinh tĩnh và bản năng nhất, không giấu diếm càng không có nhu cầu thanh minh. Đêm phơi phóng những phũ phàng và tàn khốc của mất mát, cạn kiệt, chia ly... và biến những điều ấy thành thời gian và hồi ức cần được chạm tới. Đó là dấu vết của điểm tận cùng.
Vào giờ khắc của đêm, khi những diễn văn tung hô đã hết phiên lưu trú, ta bám trụ vào hơi thở yếu ớt để nghe sự động đậy cựa mình của những phận mỏng không tên. Lao công ấy là một người nữ, nhân dáng mảnh nhỏ, tóc dài vấn sau mảnh khăn bông trắng. Người không bịt khẩu trang bảo vệ, khuôn mặt không khắc khổ mà đầy đặn, lặng lẽ một vẻ trầm tư bí mật. Vì bí mật nên gợi cảm. Cánh tay đưa chổi khoan thai, không vội vàng, không chậm rãi, thể như không gian này chỉ có người và những chiếc lá còn sót lại của ngày. Miệng nhỏ nhẹ hát những âm thanh đứt quãng, yếu ớt mà sao cảm giác đủ sức phát ra năng lượng cho cả con phố u buồn. Đứng chôn chân ở góc đường để nhìn người quét xong đám lá, ta không dám lại gần bắt chuyện vì sợ làm mất đi sự tự nhiên và cô đơn quý giá ấy của người lao công đẹp. Thọc tay túi quần bước đi, lòng nghĩ hoài về người phụ nữ làm công việc đêm khuya vất vả, khi cả thành phố đã ngủ yên mà người vẫn không hề gợn lên một sự mệt mỏi hay bi quan nào, mà trái lại cứ điềm tĩnh dịu dàng như nhất?
Bởi chính đêm cũng không hiểu hết sự nữ tính của mình.
Đêm là thời khắc thuộc về mặt trăng, mang màu âm tính, là cái đẹp trễ nải, là đàn bà. Lần theo đường đi của sông An Cựu, ý nghĩ và ánh mắt gọi tên những làn khói Cẩm Lệ được nhả mê sảng vào không trung. Mái đầu ấy không còn xanh, ngón tay kẹp cuộn thuốc phì phèo nhỏ giọt. Phì phèo cho người cảm giác được phóng thoát mình, phóng thoát những ứ đọng của cảm xúc và lý trí. Khi người phì phèo, người thấy xung quanh thuộc về sự chiếm lĩnh của làn khói, với những đường vân run bần bật lẫn vào không trung. Khi ấy, người cảm nhận được hình hài của nỗi buồn và thậm chí, cả những tuyệt vọng sỗ sàng mà người vừa được nhận lấy. Khói thuốc giống như một thứ xung năng mê man và dào dạt, khỏa lấp muộn phiền và gọi tên vẻ đẹp của sự quên lãng bâng quơ. Bởi lẽ, quên khó hơn nhớ rất nhiều.
Ta lân la ngồi cạnh người, nhận ra vẻ đẹp cô độc như hương khói ở ngôi chùa nhỏ nằm sâu trong núi rừng miên viễn. Chỉ có thể nhìn thấy như một vệt màu đã chịu nhiều va đập của thời gian và hoàn toàn không có nhu cầu phát sáng. Người than phiền về sự buồn tẻ của đời mình, về những được mất nổi nênh sau nhiều chục năm sống làm một kiếp nữ nhân thường thấy. Bởi chẳng ai có thể dám chắc mình hiểu được gánh nặng của kẻ tự mang nên người mãi mãi ngồi một bóng ở bậc thềm thở dài để uống cạn đời mình và đời nhìn người rỗng không. Châm điếu thuốc, người nói về những thứ đã thực sự rời khỏi tay mình: tuổi xuân, hạnh phúc, sự dịu dàng. Đột nhiên người bảo, tôi thấy mình lạ lắm, lòng tôi tràn ngập nỗi cô độc nhưng sao tôi lại thấy trống rỗng thế này hả cô? Ta không biết nói với người ra sao, chỉ biết im lặng nhìn mái tóc lơ phơ vài ba sợi bạc ấy.
Những khi ấy, hồn kẻ lữ khách cứ tự dưng hoài niệm những điều không thuộc về mình. Muốn chạm tay vào từng mảng tường rêu cũ để cảm nhận đường đi của thời gian, hình dung tiếng trẻ nhỏ vui đùa, tiếng rao hàng ăn buổi sớm, tiếng xe máy kỳ cạch lách nhau để về nhà lúc cuối ngày... Ẩn sau những tiết tấu đời thường ấy, còn có cả tiếng hoa nở thơm tho và tiếng gió lay chuyển khi sang mùa nữa.
Chớm hạ, đêm tan vào những tàng lá xanh non. Rảo bước chầm chậm trên cầu Trường Tiền, thấy mọi phố xá nhà cao trở nên vô hình mà chỉ thấy ngăn ngắt một mặt sông phẳng lặng, mềm mại khi trời chìm sâu trong đêm tịch mịch. Ta đã nhiều lần đứng trên cầu và nhìn xuống dòng sông nhưng chưa khi nào thấy mặt sông hiền hòa thẳm sâu đến thế. Trong im lặng của mùa, Trường Tiền và Hương Giang như một chỉnh thể vĩnh hằng của tạo hóa, được bảo bọc bởi tấm áo mỏng tang như giấy dó của khí hạ đang dâng, say sưa dựa dẫm vào nhau và như là nguyên ủy của mọi cảm hứng văn học nghệ thuật đất này. Chỉnh thể ấy hoàn nguyên một đôi tri âm tri kỷ, chỉ duy, mãi mãi thuộc về xứ Huế mà thôi.
Có tiếng gõ mái thuyền đuổi cá khoan nhặt trên sông, như mách bảo một cuộc đời ngư phủ suốt đời lênh đênh sông nước. Mặt người khi mờ khi tỏ bên ánh đèn leo lét chỉ đường, đôi cánh tay vạm vỡ đen sạm đẩy bánh lái về phía trước, rẽ sóng xô dạt hai bên. Trăng cận rằm đổ bóng xuống mui thuyền làm sáng một màu gỗ cũ, dập dềnh cùng gợn sóng nhỏ trên mặt sông. Gần gụi. Nương tựa. Người sẽ mang xâu cá tươi về nhà ít giờ nữa, để lại được ngủ một giấc bình thường.
Đêm không chỉ là một khoảng thời gian của ngày mà là một khoảnh khắc đặc biệt, thậm chí, riêng biệt. Đêm mở ra sự khô hạn của lý trí, sự trồi sụt của cảm xúc, sự nghỉ ngơi của đồng áng, sự sưng tấy của những nỗi buồn tưởng như trôi tuột dưới thung sâu... Đã có lúc ta ngấm ngầm đi về hoài mãi một con đường vắng dấu chân người chỉ để hy vọng được nghe những câu hát đã từng vô tình được nghe. Ngõ tối và sâu hun hút nhưng giọng hát ấy trong vắt ngọc tuyền mà lặng nghe thấy như tiếng khóc về một thời thanh xuân tươi đẹp đã đi qua. Tiếng hát ấy làm thức dậy sự uể oải lâm ly của hàng rêu già trước cổng, phả ra và nâng niu một dung dáng được gọi là Cố Nhân.
“Trả lại em yêu
khung trời mùa hạ
ngọn đèn hiu hiu nỗi buồn cư xá
vài giọt mưa sa hôn mềm trên má
tóc em thơm nồng
dáng em hiền hòa”
Đó là khi ta nhận ra, khóc được, ấy là một ân huệ. Thực sự đã có những lúc ta không suy nghĩ tử tế một điều gì. Khi mà trong cuộc sống này, mọi niềm vui và nỗi buồn cũng chỉ là những khoảnh khắc ăn đong, ta cứ kệ nó trôi đến đâu thì đến. Ta đã ước chi mình là người vô cảm. Không đắn đo chữ nghĩa, không nâng niu chiều chuộng những góc xám ngắt của cõi lòng, không bị câu thúc bởi nỗi run rẩy và sự lên đường. Nhiều khi, ta chỉ muốn ngồi bệt ở đống rơm để nhìn lũ rận mạt bò lồm cồm tìm lối đi. Nhưng mỗi khi chìm trong đêm Huế xanh xao hao mòn, bấy nhiêu điều mình muốn khước từ kia lại lần lượt trỗi dậy. Cảm giác như bị bắt trúng tim đen, vì hàng cây góc phố hơi cafe thơm, vì ánh đèn dầu hiu hắt trên những mẹt hàng bên Vỹ Dạ, vì tiếng rao đêm ngang Ga Huế... lẫn trong tiếng xe cộ phân khối lớn kêu gầm trời đêm đêm. Với bản thể trầm mặc vốn có, hai thái cực tĩnh động ấy thể hiện gương mặt chuyển mình của phố mà tinh thần bản thể vẫn là tiếng va chạm lanh canh chén đũa và tiếng khánh đồng ngân nga rù quến đậm chất Á Đông cận thềm chùa.
Và dẫu cho thời gian có trôi đi, vài giờ, hoặc vài năm thì điều đọng lại trong những đêm sâu ấy chính là âm thanh rì rầm, nhỏ nhặt của một đô thị rêu phong. Với một lữ khách ngụ cư, còn gì cảm động hơn là được lắng tai nghe tiếng thành quách động đậy bạc mình những đêm khó ngủ. Những điều ấy không khiến ta thêm buồn, mà thương.
N.H
(SHSDB25/06-2017)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).