HỒ VIẾT TƯ
南國山河 南國山河南帝居 截然定分在天書 如何逆虜來侵犯 汝等行看取敗虛 |
NAM QUỐC SƠN HÀ Nam quốc sơn hà Nam Đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư |
Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Có ý kiến của PGS.TS Đoàn Lê Giang “Có cần thay bản dịch bài Nam quốc sơn hà?” đăng trên Báo Tuổi trẻ số 307/2015 (8132) ra ngày thứ năm 12/11/2015 về bản dịch của bài thơ tôi rất vui mừng. Tôi xin góp thêm vài ý kiến:
Nói về thơ, người xưa có câu: “Hữu thanh, vận, khả ca vịnh chi văn vị chi thi” (Một bài văn có thanh, có vần, có thể ngâm được, ca được gọi là bài thơ), như vậy, nhất thiết một bài thơ thì phải có thanh, có vần, đặc biệt thơ xưa loại thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt thì niêm luật rất chặt chẽ, bài thơ đúng niêm luật thì khi đọc nghe rất xuôi tai, dễ thuộc, và tự thân nó mang tính đại chúng.
Dịch một bài thơ cổ đạt trình độ tín, đạt, nhã đã khó, lại còn sao cho “hữu thanh, vận” lại khó hơn. Bản dịch của cụ Hoàng Xuân Hãn tiệm cận với các yêu cầu đó, lại có thanh, có vần nên khi đọc rất dễ thuộc, và do đó bao thế hệ học trò rất nhiều người thuộc, nó còn là vũ khí đấu tranh sắc bén, ăn sâu trong tiềm thức người Việt, rất hào sản khi đọc các vần thơ này và cũng rất hiên ngang lúc vận nước có nguy cơ bị xâm lăng.
Nhưng bản dịch của Lê Thước, Nam Trân được đưa vào sách giáo khoa đã dịch:
Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Câu một của bài thơ Chữ Hán không có Quốc hiệu Việt Nam, và vào thời điểm đó nước ta chưa phải là Việt Nam. Cho nên Nam quốc sơn hà Nam Đế cư, dịch là Núi sông Việt Nam vua Nam ở là không đúng với tín, Hoàng Xuân hãn dịch Sông núi Nước Nam vua Nam ở, chính xác hơn.
Câu hai của bài thơ gốc: từ tiệt nhiên là động từ, xác định rạch ròi, định phận là phân chia (núi sông ở câu trên), tại thiên thư là tại sách trời mà dịch là vằng vặc, một tính từ chỉ cấp độ ánh sáng (ví dụ: ánh trăng vằng vặc), lại thêm chia xứ sở, trong câu tiệt nhiên định phận tại thiên thư không có xứ sở nào cả mà chỉ có chia sông núi như đã nói trên, dịch như vậy nó không tiệm cận được cả về tín và đạt.
Câu ba: như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, từ xâm phạm nó đã được Việt hóa, đọc lên ai cũng hiểu, lai xâm phạm mà dịch là phạm đến đây là một hành vi có thể hiểu mới chạm đến chứ chưa hẳn là hành động xâm lăng, dịch như vậy không sát nghĩa cũng đã phạm vào tín, và tất yếu không đạt.
Câu bốn: cụm từ thủ bại hư có nghĩa chuốc lấy thất bại, đây là một đội quân xâm lược, (một đám người) thì chỉ có thể tan rã, chứ không phải là vật cứng, vô tri mà tan vỡ cho nên cũng không đạt nguyên tắc tín.
Ngoài ra, vần điệu trúc trắc, khục khặc cũng bất khả ca, vịnh. Bởi vậy giữ lại bản dịch của cụ Hoàng Xuân Hãn hay hơn nhiều.
H.V.T
(SHSDB20/04-2016)
YẾN THANH
Mất gần sáu năm, từ khi còn đang là một nhà phê bình trẻ đầy xông xáo trên văn đàn, cho đến khi trở thành một người có thẩm quyền và uy tín trong lĩnh vực của mình, bạn đọc yêu mến nhà phê bình Đoàn Ánh Dương mới lại được hội ngộ anh qua một chuyên luận nghiên cứu văn học.
NGUYỄN QUANG HUY
NGUYỄN MẠNH TIẾN
PHƯỚC CHÂU
Phan Du không chỉ là cây bút truyện ngắn thời danh ở các đô thị miền Nam trước năm 1975, mà còn là nhà biên khảo lịch sử thông qua cảm quan của một nhà văn, được bạn đọc một thời yêu thích.
ĐINH THỊ TRANG
Trâu là một trong những vật nuôi gần gũi với con người. Chúng được thuần hóa rất sớm (cách nay khoảng 6.000 năm). Trâu hiện diện trong đời sống lao động vật chất cho đến đời sống tinh thần của người dân. Tùy theo các nền văn hóa mà chúng có sự ưu ái và địa vị khác nhau.
PHAN VĂN VĨNH
Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn, nhà nghiên cứu lý luận, nhà phê bình văn học nghệ thuật hiện đại thế kỷ XX. Ông tên thật là Phan Ngọc Hoan (ghi trong gia phả là Phan Ngọc Hoan Châu), sinh năm 1920. Quê làng An Xuân, xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; ngày xưa làng An Xuân thuộc tổng An Lạc, huyện Võ Xương, phủ Triệu Phong.
HỒ THẾ HÀ
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908 - 1954) được xem là nhà báo, nhà lý luận phê bình văn học tiên phong và xuất sắc.
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Tương thông trực tiếp với thế giới phương Tây, văn học ở Nam Việt Nam có sự gắn bó chặt chẽ với những biến chuyển của văn hóa và văn học Âu Mỹ.
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
VŨ HIỆP
Quá trình di cư và định cư, sự thích ứng với thổ nhưỡng và môi trường sinh thái, những biến cố và lựa chọn lịch sử, di truyền sinh học và văn hóa... đã tạo nên những đặc tính nghệ thuật khác nhau được lưu truyền ở các dân tộc. Hiện tượng đó có thể gọi là Mã gien nghệ thuật.
HỒ THẾ HÀ
Yến Lan là nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ông sinh ra, lớn lên, học tập và làm thơ trên vùng đất cũ thành Đồ Bàn, thuộc làng An Ngãi, phủ An Nhơn. Ông là một trong những thành viên nòng cốt của nhóm thơ Bình Định.
PHẠM PHÚ PHONG
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh là vị thầy khả kính của nhiều thế hệ học trò, trong đó có tôi. Ông là nhà giáo, nhà lý luận, phê bình nổi tiếng, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu được bạn đọc cả nước chú ý.
PHẠM XUÂN PHỤNG
Trong một lần gặp mặt toàn thể hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, nhà giáo - nhà văn - dịch giả Bửu Ý có nêu một gợi ý: Từ điển Tiếng Huế thì bác sĩ Bùi Minh Đức đã thực hiện.
PHONG LÊ
Lý luận văn học mác xít xác định mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống trong mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, xem văn học là tấm gương phản ánh đời sống; có đời sống mới có văn học.
NGUYỄN DƯ
Trong kho tàng thi ca Việt Nam chỉ thấy độc nhất một bài tả Hội Tây thời Pháp thuộc. Đó là bài Hội Tây của Nguyễn Khuyến.
THÁI PHAN VÀNG ANH
Trong tiểu thuyết Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà từng giễu kiểu người sính chức danh với cacvidit dài dằng dặc những nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghệ thuật học…, rằng: “nhiều nhà như thế đáng nhẽ phải gọi là phố”.
PHAN NGỌC
Tôi kể dưới đây những điều mắt thấy tai nghe. Nó là bình thường đối với thế hệ những người 65 tuổi trở lên nhưng có thể có ích đối với các bạn trẻ mà giai đoạn này đã diễn ra trước khi các bạn ra đời. Cho phép tôi nói một vài sự kiện có tính chất tiểu sử mặc dầu tôi không xem việc kể chuyện gia đình là quan trọng.