Năm rắn nói chuyện rắn

09:21 14/05/2015

VƯƠNG THỪA ÂN

Trong mười con giáp thì chỉ có hai cặp "họ hàng" được xếp liền với nhau là Dần - Mão và Thìn - Tỵ. Nhưng trong hai cặp đó thì lại chỉ có cặp Thìn - Tỵ là được ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày nhắc đến luôn: Rồng rắn.

Ảnh: internet

Rồng rắn - tổ hợp đó trong từ thuần Việt chỉ mang hai nghĩa: chỉ một đám người kéo đi lộn xộn hoặc chỉ những kiến trúc hội họa cầu kỳ.

Cũng một nghĩa đen "rồng rắn" nhưng tổ hợp "long xà" trong từ Hán Việt lại mang rất nhiều nghĩa bóng khác nhau: - nhân tài phi thường - chỉ chung các loài thú dữ. Khi đưa vào kết cấu tiểu đối như "long đầu xà vĩ" (đầu rồng đuôi rắn) thì ý nghĩa còn sâu sắc hơn nhiều.

Năm rồng qua rồi đến năm rắn. Chỉ nói riêng chuyện rắn thôi cũng đã nhiều. Trong văn học, hình tượng rắn thường được dùng để chỉ những thế lực độc ác, nguy hiểm: hang hùm miệng rắn, rắn khôn dấu đầu... vì thế người ta thường nhắc nhau "đánh rắn phải đánh dập đầu". Rắn còn được dùng để chỉ những thế lực ngoại xâm khi có kẻ "cõng rắn cắn gà nhà". Thật là chỉ nhờ một từ rắn mà thành ngữ đó như một mũi tên trúng hai đích: vừa lên án bọn cướp nước, vừa nguyền rủa bọn bán nước.

Mức độ độc hại của rắn có thể được giảm bớt khi ta nói "rắn đổ nọc cho lươn" để chỉ trích những kẻ lẩn tránh trách nhiệm, trút khuyết điểm cho người khác.

Từ xa xưa, hình tượng rắn đã gắn liền với các truyện cổ tích, truyền thuyết và điển cố phương đông: Thạch Sanh chém xà tinh. Rắn già rắn lột, người già người chui tuột vào săng. Viên ngọc rắn, truyền thuyết Lưu Bang chém rắn khởi nghĩa lập nên nhà Hán, rồi hình tượng Trương Phi với ngọn xà mâu - thứ binh khí có mũi nhọn, dài và uốn cong như con rắn, rồi thế trận "trường xà quyền địa" (rắn dài cuốn đất) của Khổng Minh, đã hấp dẫn bao nhiêu thế hệ.

Một câu chuyện hoang đường nói về việc "rắn báo oán", dẫn đến cái họa tru di tam tộc của Nguyễn Trãi được nhiều người biết đến, hẳn là do bọn thống trị hồi đó dựng lên để hòng che đậy phần nào cho tội ác ghê tởm của chúng mà thôi.

Rắn cũng còn là một hình tượng được nhắc đến khá nhiều trong thuyết duy tâm. Không biết do đâu mà có câu: "Khi đi gặp rắn thì may..." Kinh Thi, tập phong dao cổ đại của Trung Quốc cũng có câu: "duy hủy duy xà, nữ tử chi tường" nghĩa là mộng thấy các loài rắn thì ứng vào điềm... sinh con gái.

Xưa kia người ta xếp rắn (tất nhiên phải là loại mãng xà) mạnh vào hàng thứ ba, hơn voi, chỉ thua đại bàng và cá kình: "nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng". Rắn đáng sợ đến nỗi, sách truyền lại, có người đến nhà bạn chơi, cầm chén rượu lên định uống, thấy bóng cây cung treo trần vách in vào chén, tưởng là trong chén có rắn, không dám uống nữa!

Rắn là một loài bò sát không chân, điều đó ai cũng biết, vậy mà có cậu bé học mãi không thuộc, đã phải ngắt ra mà gào lên hai đoạn câu: "rắn là một loài bò, rắn là một loài bò, sát không chân, sát không chân"(!) Rắn không có chân mà đã nguy hiểm như thế thì những kẻ "vẽ rắn thêm chân" còn đáng sợ biết bao!

Thực ra thì thành ngữ vẽ rắn thêm chân (họa xà thiêm túc) vốn không mang ý nghĩa vu khống, bịa đặt như ngày nay. Theo "Chiến Quốc Sách" của Lưu Hướng đời Hán soạn ra thì xuất xứ của thành ngữ đó như sau: Một viên quan nước Sở tế thần xong, hạ chén rượu tế xuống nói với những người cùng dự rằng, hễ ai vẽ được xong con rắn trong một hồi trống thì thưởng rượu cho. Có người vẽ xong, thấy không ai kịp mình, bèn khoe: "Tôi còn vẽ được cả chân nữa". Nhưng y vẽ chưa xong bốn cái... chân rắn thì người bên cạnh vẽ xong rắn, liền quát: "vẽ rắn có chân thì không phải là rắn!". Rồi giật chén rượu uống mất. Từ đó về sau "họa xà thiêm túc", được dùng để chỉ những việc thêm thắt vụng dại.

Trò chơi "Rồng rắn lên mây" - Ảnh: internet


Vậy là trong văn học, hình tượng rắn không phải bao giờ cũng độc ác, và xấu xa, có khi nó còn lành mạnh, đẹp và đáng thương nữa: "rồng rắn lên mây, có cây núc nác"... (đồng dao) len lét như rắn mùng năm (thành ngữ tiếng Việt). Hoặc khi ta nói: "Mất chủ tướng, nghĩa quân như rắn mất đầu" thì rõ ràng "rắn" ở đây là một lực lượng chính nghĩa.

Có lẽ nhờ được ghép với "rồng" mà "rắn" nhiều khi thay đổi bản chất chăng:

"Lấy chồng thì phải theo chồng
Chồng đi đường rắn đường rồng cũng theo
" (ca dao)

Trong quan niệm xưa, họ hàng nhà rắn rất đông, đến cả thằn lằn cũng còn được coi là một loài rắn, đó cũng là một thuận lợi cho lối thơ hạn chữ rất oái oăm đương thời. Chuyện kể rằng Lê Quý Đôn hồi nhỏ có lần phạm lỗi, bị bố phạt bằng cách bắt phải làm một bài thơ mà trong mỗi câu đều phải có tên một loài rắn trong đó (tất nhiên phải là loại thơ thất ngôn bát cú với đủ niêm luật khắt khe). Hình phạt quả là khắc nghiệt đối với một cậu bé, vậy mà cậu đã vượt qua được một cách dễ dàng:

"Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
Lằn lưng cam chịu vệt năm ba
Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia
".

Đủ các loài rắn độc, rắn lành, rắn to, rắn nhỏ trong đó mà bài thơ vẫn rất dí dỏm, lại thể hiện được khí phách ngang tàng. Vậy mới biết câu châm ngôn Đa-ghét-Xtan: "Trong tay người hiểu biết thì nọc rắn cũng trở thành có ích, trong tay kẻ ngu dốt thì mật ong cũng trở thành tai vạ" thật là chí lý.

Năm rắn nói chuyện rắn để cảm nhận những giá trị văn chương rồi ngẫm sự đời, cũng là một điều bổ ích và thú vị như là... uống ly rượu rắn vậy.

V.T.A
(SH35/01&02-89)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN TRỌNG HOÀCó thể khảo sát nghĩa của tục ngữ từ góc độ văn bản hoặc góc độ ứng dụng. Ở nước ta, việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ trong quá trình sử dụng không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng so với xu hướng này thì việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ ở trạng thái ổn định trên văn bản đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thật khó khẳng định rằng trong hai cách xem xét trên thì cách nào là quan trọng hơn, vì nó không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của đối tượng được nghiên cứu mà nhiều khi còn tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng loại đề tài và nói chung là tuỳ thuộc vào nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Điều đáng lưu tâm là ở chỗ, khi mình đã lựa chọn hướng tiếp cận này thì đừng vì thế mà phủ nhận hướng tiếp cận kia.

  • TRẦN ANH PHƯƠNGĐi chơi gặp vịt cũng lùagặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu                                                (Ca dao)

  • VIỆT CHUNGTrong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.

  • TRIỀU NGUYÊNHiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh. Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc biệt.

  • PHẠM THỊ ANH NGATheo quan niệm thông thường, phép lịch sự bao giờ cũng có tính ưu đãi đối với tha nhân: dành cho kẻ khác một tầm quan trọng và thái độ trân trọng hơn là đối với chính bản thân. Nhưng cũng tuỳ từng nền văn hoá, mà giữa hai bên tương tác có sự cân bằng tương đối về vai vế hay không. C. Kerbrat-Orecchioni phân biệt: (1) Những xã hội ở đó quyền lợi giữa hai bên giao tiếp tương đối ngang nhau; (2) Những xã hội xem đối tượng tương tác (A: allocutaire) có được nhiều quyền ưu tiên hơn bản thân người tương tác (L : locuteur).

  • TRIỀU NGUYÊN1. Câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12 đầu sách có chép nó.

  • NGUYỄN ĐỨC TĂNGCũng như ca dao, những câu hò trong dân gian thuộc loại văn chương bình dân nên rất phổ cập trong dân chúng. Tác giả của nó có thể là những nhà thơ dân gian, thường không lưu lại tên tuổi như những nhà thơ của văn học thành văn, nhưng cũng đóng góp đời mình vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca trong lãnh vực văn chương bình dân.

  • TÔ VĨNH HÀNhỏ nhất như con chuột và kiêu dũng nhất như con rồng, mười hai con giáp trong lịch can - chi vẫn mãi thôi thúc lẽ nghĩ suy của muôn vạn kiếp đời trong cái nghiệp tận hằng của sự hiểu và cả “sự” làm người.

  • TRẦN ĐÌNH SỬNgười mù đều rất đôngTranh nhau nói sự thậtVoi vốn chỉ một thânThị phi lại bất đồng…

  • TRIỀU NGUYÊNI. Khái quátXem xét cách sử dụng hình ảnh của một thể loại văn học là yêu cầu cần có khi tiếp cận thể loại ấy. Tình hình nghiên cứu thể loại câu đố có nhiều hạn chế so với các thể loại khác của văn học dân gian, trong đó, có vấn đề hình ảnh.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGCho đến nay, đã có các công trình sưu tầm và biên soạn truyện cổ Tà Ôi khá đầy đặn về văn bản. Qua các công trình nầy chúng ta thấy rằng người Tà Ôi sinh sống trên dãy Trường Sơn, quần cư chủ yếu trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng tri thức phong phú về văn học dân gian mà trong đó thể loại An xoar (chuyện cổ tích) là một thí dụ điển hình.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGNgười Tà Ôi ở Việt Nam thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đố (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca.

  • TRIỀU NGUYÊN           Chùm Truyện ngụ ngôn

  • HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.

  • TRIỀU NGUYÊN 1.Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đỉnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát,...).