VƯƠNG THỪA ÂN
Trong mười con giáp thì chỉ có hai cặp "họ hàng" được xếp liền với nhau là Dần - Mão và Thìn - Tỵ. Nhưng trong hai cặp đó thì lại chỉ có cặp Thìn - Tỵ là được ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày nhắc đến luôn: Rồng rắn.
Ảnh: internet
Rồng rắn - tổ hợp đó trong từ thuần Việt chỉ mang hai nghĩa: chỉ một đám người kéo đi lộn xộn hoặc chỉ những kiến trúc hội họa cầu kỳ.
Cũng một nghĩa đen "rồng rắn" nhưng tổ hợp "long xà" trong từ Hán Việt lại mang rất nhiều nghĩa bóng khác nhau: - nhân tài phi thường - chỉ chung các loài thú dữ. Khi đưa vào kết cấu tiểu đối như "long đầu xà vĩ" (đầu rồng đuôi rắn) thì ý nghĩa còn sâu sắc hơn nhiều.
Năm rồng qua rồi đến năm rắn. Chỉ nói riêng chuyện rắn thôi cũng đã nhiều. Trong văn học, hình tượng rắn thường được dùng để chỉ những thế lực độc ác, nguy hiểm: hang hùm miệng rắn, rắn khôn dấu đầu... vì thế người ta thường nhắc nhau "đánh rắn phải đánh dập đầu". Rắn còn được dùng để chỉ những thế lực ngoại xâm khi có kẻ "cõng rắn cắn gà nhà". Thật là chỉ nhờ một từ rắn mà thành ngữ đó như một mũi tên trúng hai đích: vừa lên án bọn cướp nước, vừa nguyền rủa bọn bán nước.
Mức độ độc hại của rắn có thể được giảm bớt khi ta nói "rắn đổ nọc cho lươn" để chỉ trích những kẻ lẩn tránh trách nhiệm, trút khuyết điểm cho người khác.
Từ xa xưa, hình tượng rắn đã gắn liền với các truyện cổ tích, truyền thuyết và điển cố phương đông: Thạch Sanh chém xà tinh. Rắn già rắn lột, người già người chui tuột vào săng. Viên ngọc rắn, truyền thuyết Lưu Bang chém rắn khởi nghĩa lập nên nhà Hán, rồi hình tượng Trương Phi với ngọn xà mâu - thứ binh khí có mũi nhọn, dài và uốn cong như con rắn, rồi thế trận "trường xà quyền địa" (rắn dài cuốn đất) của Khổng Minh, đã hấp dẫn bao nhiêu thế hệ.
Một câu chuyện hoang đường nói về việc "rắn báo oán", dẫn đến cái họa tru di tam tộc của Nguyễn Trãi được nhiều người biết đến, hẳn là do bọn thống trị hồi đó dựng lên để hòng che đậy phần nào cho tội ác ghê tởm của chúng mà thôi.
Rắn cũng còn là một hình tượng được nhắc đến khá nhiều trong thuyết duy tâm. Không biết do đâu mà có câu: "Khi đi gặp rắn thì may..." Kinh Thi, tập phong dao cổ đại của Trung Quốc cũng có câu: "duy hủy duy xà, nữ tử chi tường" nghĩa là mộng thấy các loài rắn thì ứng vào điềm... sinh con gái.
Xưa kia người ta xếp rắn (tất nhiên phải là loại mãng xà) mạnh vào hàng thứ ba, hơn voi, chỉ thua đại bàng và cá kình: "nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng". Rắn đáng sợ đến nỗi, sách truyền lại, có người đến nhà bạn chơi, cầm chén rượu lên định uống, thấy bóng cây cung treo trần vách in vào chén, tưởng là trong chén có rắn, không dám uống nữa!
Rắn là một loài bò sát không chân, điều đó ai cũng biết, vậy mà có cậu bé học mãi không thuộc, đã phải ngắt ra mà gào lên hai đoạn câu: "rắn là một loài bò, rắn là một loài bò, sát không chân, sát không chân"(!) Rắn không có chân mà đã nguy hiểm như thế thì những kẻ "vẽ rắn thêm chân" còn đáng sợ biết bao!
Thực ra thì thành ngữ vẽ rắn thêm chân (họa xà thiêm túc) vốn không mang ý nghĩa vu khống, bịa đặt như ngày nay. Theo "Chiến Quốc Sách" của Lưu Hướng đời Hán soạn ra thì xuất xứ của thành ngữ đó như sau: Một viên quan nước Sở tế thần xong, hạ chén rượu tế xuống nói với những người cùng dự rằng, hễ ai vẽ được xong con rắn trong một hồi trống thì thưởng rượu cho. Có người vẽ xong, thấy không ai kịp mình, bèn khoe: "Tôi còn vẽ được cả chân nữa". Nhưng y vẽ chưa xong bốn cái... chân rắn thì người bên cạnh vẽ xong rắn, liền quát: "vẽ rắn có chân thì không phải là rắn!". Rồi giật chén rượu uống mất. Từ đó về sau "họa xà thiêm túc", được dùng để chỉ những việc thêm thắt vụng dại.
![]() |
Trò chơi "Rồng rắn lên mây" - Ảnh: internet |
Vậy là trong văn học, hình tượng rắn không phải bao giờ cũng độc ác, và xấu xa, có khi nó còn lành mạnh, đẹp và đáng thương nữa: "rồng rắn lên mây, có cây núc nác"... (đồng dao) len lét như rắn mùng năm (thành ngữ tiếng Việt). Hoặc khi ta nói: "Mất chủ tướng, nghĩa quân như rắn mất đầu" thì rõ ràng "rắn" ở đây là một lực lượng chính nghĩa.
Có lẽ nhờ được ghép với "rồng" mà "rắn" nhiều khi thay đổi bản chất chăng:
"Lấy chồng thì phải theo chồng
Chồng đi đường rắn đường rồng cũng theo" (ca dao)
Trong quan niệm xưa, họ hàng nhà rắn rất đông, đến cả thằn lằn cũng còn được coi là một loài rắn, đó cũng là một thuận lợi cho lối thơ hạn chữ rất oái oăm đương thời. Chuyện kể rằng Lê Quý Đôn hồi nhỏ có lần phạm lỗi, bị bố phạt bằng cách bắt phải làm một bài thơ mà trong mỗi câu đều phải có tên một loài rắn trong đó (tất nhiên phải là loại thơ thất ngôn bát cú với đủ niêm luật khắt khe). Hình phạt quả là khắc nghiệt đối với một cậu bé, vậy mà cậu đã vượt qua được một cách dễ dàng:
"Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
Lằn lưng cam chịu vệt năm ba
Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia".
Đủ các loài rắn độc, rắn lành, rắn to, rắn nhỏ trong đó mà bài thơ vẫn rất dí dỏm, lại thể hiện được khí phách ngang tàng. Vậy mới biết câu châm ngôn Đa-ghét-Xtan: "Trong tay người hiểu biết thì nọc rắn cũng trở thành có ích, trong tay kẻ ngu dốt thì mật ong cũng trở thành tai vạ" thật là chí lý.
Năm rắn nói chuyện rắn để cảm nhận những giá trị văn chương rồi ngẫm sự đời, cũng là một điều bổ ích và thú vị như là... uống ly rượu rắn vậy.
V.T.A
(SH35/01&02-89)
TRỊNH SÂM
Trải qua biết bao thời đại, mèo đã trở thành con vật quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam.
NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG
Làm thế nào để biết một biểu thức ngôn từ [BTNT] do dân gian sáng tác ra là một đơn vị tục ngữ? Chứ không phải là thành ngữ hay ca dao? Mục đích chính của bài này là đi tìm một câu trả lời thỏa đáng cho mấy câu hỏi vừa nêu.
NGUYỄN ĐỨC DÂN Có một giai thoại về Nguyễn Khuyến như sau: Làng Cổ Ngựa có ngôi đền thờ thánh mẫu thu hút khá nhiều người đến lễ bái. Nhằm kiếm chác đám người mê tín, hào lý trong làng xuất quỹ xây lại đền to hơn, đẹp hơn.
Mai Văn Tấn tên thật là Mai Văn Kế. Sinh ngày 12-9-1931 tại Lệ Ninh Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
THANH TRẮC NGUYỄN VĂN1. Tiểu Hổ gặp họa
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGTừ trước đến nay, không có lễ tục nào được nhắc đến nhiều trong truyện cổ của người Pacô bằng tục Pộôc xu (Đi sim), đây là một nét văn hóa truyền thống từ xưa của người Pacô. Mặc dầu đến nay do lối sống hiện đại nên nhiều nét văn hóa truyền thống mất đi, song không vì thế mà chúng ta quên nó. Đâu đó trong cuộc sống cộng đồng của người Pacô ngày nay vẫn còn nhiều câu chuyện kể về tục này. Nhân dịp xuân về xin được nêu ra đây nét đẹp trong lễ tục quan trọng đó.
L.T.S: Dân tộc Kơ-tu là một trong bốn dân tộc sống ở tỉnh Bình Trị Thiên, tập trung ở vùng Nam Đông, huyện Phú Lộc. Trước đây dân tộc Kơ-tu đã sát cánh cùng các lực lượng giải phóng tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng chống lại bè lũ Mỹ ngụy. Ngày nay, dân tộc Kơ-tu đang vững bước đi lên trong công cuộc lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Cũng như các dân tộc khác, người Kơ-tu không chỉ anh dũng trong chiến đấu, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất mà còn có một nền văn nghệ dân gian rất phong phú và độc đáo. Bài viết sau đây là một nét phác họa trong chương trình giới thiệu nền văn học dân gian các dân tộc ít người ở tỉnh Bình Trị Thiên của chúng tôi.
VĨNH QUYỀNTừ lâu điều kiện thiên nhiên cũng như điều kiện xã hội đều thuận lợi cho mối quan hệ giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam.
NGUYỄN TIẾN VĂNMột trong những câu ca dao rất thông dụng phổ biến nhưng không phải là đơn giản và dễ nắm bắt nội dung: “Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường”. Ở đây mắt của câu này là chữ ngoan. Vậy ngoan là gì?
VĨNH QUYỀNMười hai con giáp, chuột đứng hàng đầu. Kể cũng lạ?Hình dạng bé nhỏ xấu xí, phẩm cách hèn hạ đáng khinh, thế mà chuột được người xưa xếp trước cả những con vật uy mãnh như hổ, linh hiển như rồng. Đã thế, năm Tý – với biểu tượng con chuột, còn là năm đầu của một kỷ, chu kỳ 60 năm.
LƯƠNG ANCũng như nhiều vùng khác trên đất nước Việt Nam, ở Bình Trị Thiên chúng ta, các danh lam hoặc các ngọn núi cao, các dòng sông lớn thường có một truyền thuyết dân gian dính với nguồn gốc của nó. Sông Thạch Hãn, con sông lớn nhất vùng Quảng Trị cũ, cũng vậy.
TRIỀU NGUYÊN1. Khái quátSở dĩ người nghe (đọc) truyện cười phát ra được tiếng cười, bởi vì lí trí, tình cảm của họ gặp phải điều không bình thường: thay vì họ tưởng cuối cùng nhân vật sẽ nói, sẽ làm điều “A”, thì hoá ra nhân vật đã nói, làm điều “B”, thậm chí “không A”. Tức trí tuệ, cảm xúc đã không lường trước, đã bị đánh lạc hướng trước đối tượng đang quan tâm. Và thông thường, càng lạ lẫm, bất ngờ, tiếng cười càng sảng khoái, thú vị.
VĂN NHĨĐường Trường Sơn huyền thoại đã đi vào sử thi như một bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nhiều bài thơ, bài hát viết về Trường Sơn đã vượt qua biên độ của thời gian mãi mãi rung động lòng người.
LAN PHƯƠNGKho tàng âm nhạc dân gian của dân tộc Thái vùng Tây Bắc rất phong phú và đa dạng. Bất cứ nơi đâu trong bản làng của người Thái đều có thể thấy có các làn điệu dân ca thể hiện rõ phong cách riêng của mỗi vùng mà nguyên nhân do sự truyền lại cho các thế hệ theo cách cảm thụ và rung động riêng của mỗi nghệ nhân. Trong đó không thể thiếu tiếng cây đàn tính tẩu.
TRIỀU NGUYÊN1. Chơi chữ là gì?
TRIỀU NGUYÊN1. Một bộ phận truyện cổ tích sinh hoạt có yếu tố tạo ra tiếng cười đã bị nhầm lẫn là truyện cười. Sự nhầm lẫn này đã xảy ra ngay cả với những sách sưu tập được cho là nghiêm túc.
TRIỀU NGUYÊN Trong những dịp cúng lễ, lễ lạt, hiếu hỉ, và đặc biệt là vào dịp Tết, rượu thường được nhắc đến, và có khi trở thành quan trọng hàng đầu: "Vô tửu bất thành lễ".
TRIỀU NGUYÊNCó một số bài ca dao dùng hình ảnh "đèn hạnh", xin dẫn ra dưới đây ít bài:(1) Đêm khuya đèn hạnh thắp lên, Vì chưng thương nhớ cho nên đi tìm.
PHAN XUÂN QUANGĐồng Tranh là một làng nổi tiếng trù phú một thời ở Quảng Nam. Làng này hiện còn lưu truyền một câu đối cổ có liên quan đến làng Gia Hội, Huế:Văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảngQuân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì.Câu đối này còn một số dị Bản, có khác một đôi chữ nhưng câu trên đây theo nhiều người là chính nhất và phổ biến hơn cả.
TRIỀU NGUYÊN Từ ngữ cùng nghĩa là những từ ngữ gần nhau về ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh. Có ba kiểu cùng nghĩa trong tiếng Việt, là cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt (TV) với từ ngữ thuần Việt, cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt với từ ngữ Hán Việt (HV), và cùng nghĩa giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Hán Việt. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, có hai hình thức: tạo các từ ngữ cùng nghĩa xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn; và cách cùng nghĩa có kết hợp với các hình thức chơi chữ khác.