LTS: Dana Gioia là một nhà thơ, nhà phê bình, và thầy giáo hiện ở Mỹ. Ông sinh năm 1950 tại Los Angeles. Ông học đại học Standford và tốt nghiệp M.A về Văn chương Đối chiếu từ Đại học Harvard trước khi làm việc trong ngành kinh doanh. Sau 15 năm làm quản trị thương mại ở New York, ông bỏ chức phó chủ tịch công ty để toàn tâm viết sách và dạy học.
Nhà thơ Dana Gioia - Ảnh: internet
Các tác phẩm của Dana Gioia đáng kể có 3 tổng tập thơ, trong đó có: Daily Horoscope (Tử vi mỗi ngày, 1986), The Gods in Winter (Những vị thần mùa Đông, 1991) và Interrogations at Noon (Những câu hỏi giữa trưa, 2001, đoạt giải American Book Award 2002). Ông cũng đã xuất bản tập tiểu luận quan trọng: Can Poetry Matter? (Thơ có thể quan trọng?, 1992). Ông còn là đồng sáng lập Hội nghị Thi ca Mùa hè ở Đại học West Chester, Pennsylvania và Hội Giảng Dạy Thi Ca ở Sonoma, California. Tác phẩm của ông xuất hiện trên The New Yorker, The Hudson Review, và nhiều tạp chí khác. Ông được xem như là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào New Formulism (Tân hình thức), chủ trương đưa thơ Mỹ trở lại với vần điệu và những thể thơ truyền thống.
Dưới đây là một tiểu luận của ông do Phạm Kiều Tùng chuyển ngữ.
DANA GIOIA
Mười ba cách nghĩ về dòng thơ
1. Khác biệt hiển nhiên hơn cả giữa văn xuôi và thơ là sự ngắt dòng. Trong nghệ thuật, điều hiển nhiên luôn là điều quan trọng nhất - cho dù nó thường lại chính là điều mà các chuyên gia [về văn học] làm như không biết tới. Kỹ thuật thơ hầu như hoàn toàn cốt ở việc khai thác những khả năng biểu cảm của sự ngắt dòng xét như nguyên tắc thể luật để truyền đạt và tăng cường ý nghĩa.
2. Ba nguyên tắc chung của việc tạo nên dòng thơ là vần luật, cú pháp, và thị giác. Mỗi hệ thống vận hành theo những qui tắc khác nhau, nhưng mọi hệ thống đều có chung giả định về tầm mức hết sức quan trọng của sự ngắt dòng trong việc tập trung nguồn năng lượng biểu cảm và ý nghĩa của bài thơ.
3. Mọi yếu tố trong một bài thơ - mọi từ, chỗ xuống dòng, khổ thơ, chỗ thụt vào đầu dòng, thậm chí mọi dấu chấm câu - thảy đều chuyên chở tiềm năng biểu cảm ý nghĩa. Nếu bạn không định hình tính biểu cảm ở dạng tiềm năng này, thì mỗi chi tiết thụ động sẽ làm suy yếu sức mạnh tổng thể của bài thơ. Những yếu tố tiêu cực này là trọng lượng nặng bất động [dead weight] mà bài thơ buộc phải chuyên chở.
4. Phải có một lí do khiến mỗi dòng thơ chấm dứt ở chỗ nó chấm dứt. Những chỗ xuống dòng không hề trung tính(1). Sự ngắt dòng là nguyên tắc cấu thành cơ bản và chủ yếu của thơ. Là nam hay nữ thì người đọc hoặc nghe thơ cũng không cần phải hiểu được bằng tâm trí cái nguyên tắc đằng sau mỗi chỗ xuống dòng, nhưng phải cảm nhận được bằng trực giác sự thích hợp và thẩm quyền của nguyên tắc đó.
5. Mục đích của sự ngắt dòng trong thơ là để thiết lập một nhịp điệu của sự trông chờ nhằm gia tăng sự chú tâm và sức hiểu của người nghe. Mục đích của kỹ thuật thơ, đặc biệt là của nhịp thơ [với số âm tiết được qui định], là làm say mê người nghe - tạo ra một trạng thái thôi miên dịu nhẹ giúp làm giảm thiểu sự kháng cự và làm gia tăng sự chú tâm của người nghe. Thơ tự do thiếu vắng cái nhịp điệu đều đặn tác động vào cơ thể của thơ vần luật, nhưng nó tìm kiếm cũng cái tác động đó vào những dây thần kinh bằng những biện pháp khác. Sự ngắt dòng là nguyên tắc cấu tạo trung tâm [quan yếu nhất] của thơ tự do.(2)
6. Những lí do qui định độ dài của dòng thơ phải là nhất quán trong một bài thơ - trừ khi có sự cần thiết cực kì lớn về mặt biểu cảm khiến phải vi phạm những lí do đó. Cần có thời gian và nghị lực để thiết lập một mô hình nhằm tạo được sự trông chờ nơi người đọc/nghe thơ. Nếu quá dễ dãi trong việc vi phạm, hoặc thường xuyên vi phạm, thì mô hình thống lĩnh, chỉ đạo sẽ bị phá vỡ. Một mô hình được thực hiện một cách tệ hại thì còn tệ hại hơn là không có mô hình. Và không có một mô hình tạo được sự biểu cảm thì không có thơ.
7. Mỗi bài thơ phải có một dòng thơ làm mẫu mực. Độ dài làm chuẩn mực cho dòng thơ phải là rõ ràng - để người nghe hoặc đọc thơ thấy được sự rõ ràng đó, một cách ý thức hoặc vô thức. Chuẩn mực đó phải được duy trì suốt bài thơ, trừ trường hợp có sự thay đổi do đòi hỏi của tính biểu cảm về mặt ý nghĩa của bài thơ. Sau mỗi sự xáo trộn, tức là sau những sự thay đổi như đã nói trên, bài thơ sẽ trở về với độ dài chuẩn mực của dòng thơ hoặc là một chuẩn mực mới sẽ được tạo ra. Giá trị biểu cảm của tất cả những xáo trộn đó phải lớn hơn so với sự mất mát cái đà đẩy tới [cái động lượng hoặc xung lượng] của bài thơ và sự hủy hoại sức quyến rũ của mô hình.(3)
8. Mỗi dòng thơ có hai phận sự bổ sung cho nhau - đảm nhiệm tốt vai trò của nó bên trong mô hình tổng thể của bài thơ, và chính nó phải là hiện thân của sức mạnh của ngôn ngữ thơ. Bài thơ thành tựu thì không chỉ tạo được sự cân bằng giữa hai phận sự khác biệt đó, mà còn sử dụng chúng như những bạn nhảy trong một vũ điệu tập thể [seamless dance].(4) Trừ phi chúng [hai phận sự đó] nhảy múa cùng nhau, bằng không thì không có thơ, mà chỉ là ngôn ngữ có vần điệu.
9. Mỗi dòng thơ phải có được một sức mạnh biểu cảm độc lập nào đó. Chỉ đủ để lấp đầy cái mô hình của bài thơ không thôi, thì không đủ để biện minh cho sự hiện hữu của một dòng thơ. Một dòng thơ phải có được một sức sinh động độc lập nào đó của từ ngữ xét về mặt nhạc tính, tưởng tượng hoặc tường thuật. Một dòng thơ riêng lẻ là một thế giới vi mô, là hệ thống thu nhỏ của toàn bộ bài thơ. Nó phải là hiện thân của những điểm ưu việt của tổng thể. Với lợi thế như vậy, nên đây chính là lí do khiến thơ là thứ văn bản có thể cắt xén để làm trích dẫn [mà không cần nêu toàn bộ ngữ cảnh].
10. Sự ngắt dòng nhằm cho người đọc biết phải nghe, nhìn, và hiểu bài thơ như thế nào. Xét như nguyên tắc chính thức và chủ yếu của thơ, sự ngắt dòng thiết lập những mô hình thính giác và ngữ nghĩa của bài thơ. Sức mạnh chính thức và tổng thể của bài thơ không thể được tựu thành nếu sự ngắt dòng bị thực hiện cẩu thả.
11. Những từ cuối dòng là biểu hiện của một trong những yếu tố biểu cảm mạnh mẽ nhất của thể thơ. Những dòng thơ đổi hướng ở từ cuối dòng.(5) Điểm đổi hướng thể hiện bằng lời này, dẫu khi không có vần, cung cấp tiềm lực dồi dào để tạo tác động đầy ý nghĩa.
12. Từ cuối một dòng thơ phải gánh vác trọng trách của việc thẩm tra về mặt tưởng tượng hoặc nhạc tính. Từ cuối dòng luôn được chú mục và lắng nghe [vì nó nổi bật]. Đừng bao giờ dứt dòng bằng những từ yếu, trừ trường hợp do đòi hỏi mạnh mẽ về mặt biểu cảm. Những từ cuối dòng - dẫu có vần hoặc không vần - phải tạo ra được sinh lực [sức sống] cho bài thơ.
13. Sự ngắt dòng hầu như luôn được nghe thấy (và luôn được nhìn thấy), cho dẫu đó chỉ là một sự tạm ngưng hoặc một âm vang rất nhỏ. Người ta không nghe thấy vạch nhịp [bar] trong âm nhạc, nhưng người nghe được tôi luyện bao giờ cũng biết rằng vạch nhịp đó nằm ở đâu, nhờ vào khuôn khổ của những nốt nhạc bao quanh nó. Vì sự ngắt dòng thì nổi bật như thế, nên nó phải được sử dụng vào mục đích tạo tác động về mặt biểu cảm. Nếu nó không thực hiện được điều đó cho bài thơ, thì nó sẽ phản lại bài thơ.
Phạm Kiều Tùng dịch và chú thích
(Nguyên tác: “Thirteen Ways of Thinking About The Poetic Line” by Dana Gioia).
Chú thích
(1) Trung tính (neutral) còn hàm ý là không có tính chất rõ rệt hoặc tích cực.
(2) Physical (the steady physical beat of metrical poetry): nhiều nghĩa: thuộc vật chất, thuộc cơ thể/thân thể, thuộc tự nhiên, thuộc vật lí… Xin tạm dịch là “thuộc về cơ thể/thân thể”, vì người dịch tạm hiểu như sau: thơ vần luật có âm tiết được qui định, tỉ dụ thơ năm âm tiết pentameter hoặc thơ sáu âm tiết hexameter, hoặc tỉ như thơ ngũ ngôn hoặc lục bát, cái nhịp đều đặn đó tác động vào cơ thể, hiểu theo nghĩa ta biết trước là thơ lục bát, thì đọc xong câu lục (sáu chữ) ta có thể ngưng một chút (có thể hiểu nôm na là để lấy hơi, tỉ dụ vậy) rồi mới đọc câu bát (tám chữ). Cũng xin tạm thêm ba chữ “tác động vào (cơ thể)” vì sau đó tác giả viết rằng thơ tự do cũng tìm kiếm the same neural effect, cũng tìm kiếm cái tác động đó (same effect), và là cái tác động vào dây thần kinh (neural - nghĩa là của cơ thể): do vậy, xin tạm dịch cái steady physical beat một cách dài dòng là nhịp điệu đều đặn tác động vào cơ thể.
(3) Xin tạm dịch spell (pattern’spell) là sự quyến rũ vì liên hệ từ này với khái niệm gentle hypnotic state bên trên. [Xin ghi ra đây toàn văn paragraph 5: The purpose of lineation in verse is to establish a rhythm of expectation that heightens the listener’s attention and apprehension. The purpose of poetic technique, especially meter, is to enchant the listener—to create a gentle hyp- notic state that lowers the listener’s resistance and heightens attention. Free verse lacks the steady physical beat of metrical poetry, but it seeks the same neural effect by different means. Lineation is the central organizing principle of free verse.]
1. Xin tạm dịch seamless dance là vũ điệu tập thể.
2. Versus, tiếng La-tinh, có nghĩa a line, row, verse: một dòng; một hàng, dãy; một dòng thơ, câu thơ. Nhưng nghĩa gốc, nguyên thủy, của từ versus là “quay lưỡi cày để tạo những luống cày trên cánh đồng” - do vậy nên “sự quay” [đổi hướng] là một trong những ẩn dụ thống lĩnh, chỉ đạo cổ xưa để nói về thơ và kĩ thuật thơ.
Williams Carlos Williams
DAWN Ecstatic bird songs pound the hollow vastness of the sky with metallic clinking – beating color up into it at a far edge, - beating it, beating it with rising, triumphant ardor, - stirring it into warmth, quickening in it a spreading change, - bursting wildly against it as dividing the horizon, a heavy sun lifts himself - is lifted - bit by bit above the edge of things, - runs free at last out into the open! - lumbering glorified in full release upward – songs cease. |
BÌNH MINH Những tiếng chim hót mê ly dộng vào khoảng không bao la của bầu trời với tiếng kim lách cách - âm thanh biến tấu đập mạnh vang xa, - đập mạnh, đập mạnh với sự ngoi lên của mặt trời, hừng hực hân hoan, - khuấy cho bầu trời ấm nhanh sự thay đổi lan rộng, - bùng vỡ một cách cuồng nhiệt tương phản với bầu trời chia đôi đường chân trời, mặt trời nặng nề tự nhô lên - được nhô lên - từ từ khỏi làn biên bình minh - cuối cùng tự do tuôn vào khoảng không mở ra - sự di chuyển vụng về được ngợi ca trong ánh sáng tỏa lên tràn đầy - những tiếng hót chấm dứt. |
Khế Iêm dịch
Paul Henry
DAYLIGHT ROBBERY Silent as cut hair falling and elevated by cushions in the barber’s rotating chair this seven-year-old begins to see a different boy in the mirror, glances up, suspiciously, like a painter checking for symmetry. The scissors round a bend behind a blushing ear. And when the crime’s done, when the sun lies in its ashes, a new child rises out of the blond, unswept curls, the suddenly serious chair that last year was a roundabout. All the way back to the car a stranger picks himself out in a glass-veiled identity parade. Turning a corner his hand slips from mine like a final, forgotten strand snipped from its lock. |
CƯỚP BAN NGÀY Im lặng như tóc cắt rơi xuống và được nâng lên bởi chiếc ghế xoay bọc nệm của người thợ hớt tóc đứa bé bảy tuổi này bắt đầu nhìn thấy đứa con trai khác trong gương, liếc qua, một cách đáng ngờ, như một họa sĩ đang cân đối màu sắc. Chiếc kéo chấn một đường cong đằng sau vành tai ửng đỏ. Và khi việc hớt tóc xong, khi tóc vàng nằm trong những vụn tóc trên sàn nhà, một đứa trẻ mới đứng lên, từ những lọn tóc vàng chưa quét, từ chiếc ghế xoay năm trước đột nhiên quan trọng. Trên đường trở ra xe một kẻ lạ tự nhận dạng trong khung kính cửa sổ in bóng người qua lại. Tới một góc rẽ đứa con trai chia tay bóng hình mình, kẻ lạ, trong khung kính cửa như chỗ tóc cuối cùng bị lãng quên cắt ra từ mớ tóc. |
Khế Iêm dịch
Chú thích
Crime: việc cắt tóc làm thay đổi hình dạng đứa trể là một tội; Sun (mặt trời): tóc vàng; Ashes (tàn tro): vụn tóc bị cắt rơi trên sàn nhà.
* Paul Henry là một nhà thơ Anh. Bài thơ được rút ra từ tập thơ “The Brittle Sea”, 2010, do tác giả gửi tặng.
____________________
Note
The readers read the poem in its original language, listening for the rhymes and rhythms and linguistic techniques that were employed in the original language, and then re-reading the Vietnamese translation to glean the meaning. That is the process which a reader must go through in order to fully enjoy a poem
Người đọc thơ, đọc nguyên bản để lắng nghe âm thanh và nghệ thuật của ngôn ngữ và đọc bản dịch tiếng Việt để nắm bắt ý thơ. Lúc đó mới hoàn tất qui trình đọc và người đọc sẽ thưởng thức bài thơ một cách toàn vẹn.
(SH315/05-15)
BORIS CHEKHONIN
Địa điểm là ở khu Tam giác Vàng, những câu chuyện không phải là nói về CIA, những tên gián điệp, những viên chức chính quyền địa phương thối nát hoặc những nhân vật quen thuộc khác. Thời thế đã thay đổi. Băng-cốc đang phát động cuộc chiến chống lại chất na-cô-tic.
L.T.S: Năm 1985 lần đầu tiên ở Pháp độc giả mới biết có một kịch bản văn học của Jean Paul Sartre viết từ 1959 mang tựa đề "Sigmund Freud hay là Bản giao kèo với quỷ sứ". Gần đây báo Văn học Xô viết số 22 tháng 6-1988 đã đăng kịch bản văn học đó kèm với bài viết của giáo sư A.Belkin - tiến sĩ y học, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tâm lý - nội tiết - thuộc Viện tâm thần học MOCKBA. Sau đây Sông Hương xin giới thiệu với độc giả kịch bản J.P.Sartre và bài viết nói trên của giáo sư tiến sĩ A.Belkin.
PANKAJ MISHRA - BENJAMIN MOSER
Ở chuyên mục Bookends hằng tuần, sẽ có hai nhà văn đứng ra giải đáp các vấn đề đặt ra với thế giới sách. Xưa, Ezra Pound từng khích lệ đồng nghiệp: “hãy làm mới”. Tuần này, Pankaj Mishra và Benjamin Moser tranh luận xem ngày nay liệu có bất kỳ sự mới lạ thật sự nào còn lại cho các nhà văn khám phá.
Hơn 50 năm vừa viết văn vừa làm báo đã làm cho nhà văn Graham Greene trở thành một người nói tiếng nói của quần chúng trên thế giới.
LISANDRO OTERO
Cách đây mấy tháng ở Thủ đô Buenos Aires (Argentina) một hội nghị các nhà văn quốc tế đã được tổ chức, để thảo luận về đề tài tiểu thuyết sẽ ra sao vào thế kỷ hai mươi mốt sắp sửa đến.
Sakharov sống trong một tòa nhà đồ sộ và không mấy vui vẻ ở Matxcơva. Tòa nhà do những tù nhân chiến tranh Đức thiết kế và xây dựng trên những công trường đã bị ném bom suốt thời chiến tranh.
PATRICK MODIANO
(Phát biểu ngày 7/12/2014 tại Hàn lâm viện Thuỵ Điển ở Stockholm của Patrick Modiano, Giải Nobel Văn học 2014)
Mọi thông tin liên quan tới người được nhận giải Nobel sẽ chỉ được Viện hàn lâm Thụy Điển tiết lộ sau 50 năm. Giờ đây, sự thật về nhà văn duy nhất từng từ chối giải thưởng văn học danh giá nhất hành tinh đã được công bố.
Nhà văn người Mỹ F. Scott Fitzgerald - tác giả của cuốn tiểu thuyết kinh điển “Gatsby vĩ đại” - đã viết thư tay cho con gái trong ngày đầu năm. Lá thư dành cho một cô bé, nhưng khiến người lớn cũng phải suy nghĩ.
Trong năm nay, một nhà văn vĩ đại của Mỹ Latinh - Gabriel Garcia Marquez - đã qua đời. Ở đất nước Colombia quê hương ông, người ta đang chuẩn bị cho ra mắt hàng loạt tờ tiền có in hình chân dung nhà văn để mọi thế hệ người Colombia đều sẽ biết và nhớ về ông.
NGUYỄN VĂN DŨNG
Thời trai trẻ tôi yêu nước Nga qua tác phẩm Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoi. Lớn lên tôi càng yêu nước Nga hơn bởi lịch sử hào hùng và nền văn hóa phong phú với những con người Nga nhân hậu, dễ thương. Nay về già, tôi quyết tâm đi thăm nước Nga cho bằng được. Tất nhiên Moskva là chọn lựa đầu tiên.
TRẦN HUYỀN SÂM
LGT: Giải Goncourt ở Pháp 5/11 vừa qua, đã vinh danh cho bác sĩ, nữ văn sĩ Lydie Salvayre, với tác phẩm Pas Pleurer/ Đừng khóc.
VĨNH THƯ
Trích ý kiến trao đổi về tình hình đổi mới công tác văn học nghệ thuật giữa đoàn cán bộ lãnh đạo văn hóa văn nghệ Việt Nam nghiên cứu học tập tại AOH (Viện hàn lâm khoa học xã hội trực thuộc TW Đảng cộng sản Liên Xô) với Ban thư ký và một số nhà văn Liên Xô.
Interstellar, bộ phim khoa học giả tưởng vừa ra mắt tháng 11 vừa qua của đạo diễn Christopher Nolan về hành trình tìm kiếm một trái đất khác - một ngôi nhà mới cho loài người, đã khiến khán giả trầm trồ, kinh ngạc và cảm động bởi nhiều yếu tố khác nhau: kỹ xảo điện ảnh đỉnh cao, cốt truyện đầy tính khoa học hấp dẫn, thông điệp đáng suy ngẫm về tình yêu và mối quan hệ của con người với Trái đất. Nhưng có lẽ ấn tượng mê hoặc nhất về bộ phim là hình ảnh hố đen (black-hole) và lỗ sâu (worm-hole) giữa vũ trụ mà đoàn làm phim đã mô phỏng - một kết quả tuyệt vời của sự cộng tác giữa khoa học và nghệ thuật.
Khác với mọi lần, năm nay, tin nhà văn Pháp Patrick Modiano được Viện Hàn lâm Thụy Điển chọn trao giải thưởng Nobel Văn học có phần làm cho báo chí, truyền thông ngoài nước Pháp ngỡ ngàng.
Tiến sĩ tâm thần học Brian L. Weiss kể về quá trình điều trị cho một bệnh nhân nhớ được tiền kiếp.
Sử gia kiêm nhà văn Italy Angelo Paratico vừa công bố một nghiên cứu mới gây sửng sốt, cho rằng mẹ danh họa Phục hưng Lenardo da Vinci (1452-1519) có thể là một nô lệ người Trung Quốc.
Theo nghiên cứu mới đây của nhà sử học, tiểu thuyết gia người Italy Angelo Paratico, mẹ của Leonardo da Vinci có thể là một nô lệ người Trung Quốc.
Danh họa người Ý Leonardo Da Vinci được nhân loại biết tới như một thiên tài toàn năng. Những hiểu biết và ý tưởng của ông đi trước thời đại mà ông từng sống tới hàng thế kỷ. Mới đây, người ta lại phải ngỡ ngàng trước một phát hiện mới về ông.