LTS: Dana Gioia là một nhà thơ, nhà phê bình, và thầy giáo hiện ở Mỹ. Ông sinh năm 1950 tại Los Angeles. Ông học đại học Standford và tốt nghiệp M.A về Văn chương Đối chiếu từ Đại học Harvard trước khi làm việc trong ngành kinh doanh. Sau 15 năm làm quản trị thương mại ở New York, ông bỏ chức phó chủ tịch công ty để toàn tâm viết sách và dạy học.
Nhà thơ Dana Gioia - Ảnh: internet
Các tác phẩm của Dana Gioia đáng kể có 3 tổng tập thơ, trong đó có: Daily Horoscope (Tử vi mỗi ngày, 1986), The Gods in Winter (Những vị thần mùa Đông, 1991) và Interrogations at Noon (Những câu hỏi giữa trưa, 2001, đoạt giải American Book Award 2002). Ông cũng đã xuất bản tập tiểu luận quan trọng: Can Poetry Matter? (Thơ có thể quan trọng?, 1992). Ông còn là đồng sáng lập Hội nghị Thi ca Mùa hè ở Đại học West Chester, Pennsylvania và Hội Giảng Dạy Thi Ca ở Sonoma, California. Tác phẩm của ông xuất hiện trên The New Yorker, The Hudson Review, và nhiều tạp chí khác. Ông được xem như là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào New Formulism (Tân hình thức), chủ trương đưa thơ Mỹ trở lại với vần điệu và những thể thơ truyền thống.
Dưới đây là một tiểu luận của ông do Phạm Kiều Tùng chuyển ngữ.
DANA GIOIA
Mười ba cách nghĩ về dòng thơ
1. Khác biệt hiển nhiên hơn cả giữa văn xuôi và thơ là sự ngắt dòng. Trong nghệ thuật, điều hiển nhiên luôn là điều quan trọng nhất - cho dù nó thường lại chính là điều mà các chuyên gia [về văn học] làm như không biết tới. Kỹ thuật thơ hầu như hoàn toàn cốt ở việc khai thác những khả năng biểu cảm của sự ngắt dòng xét như nguyên tắc thể luật để truyền đạt và tăng cường ý nghĩa.
2. Ba nguyên tắc chung của việc tạo nên dòng thơ là vần luật, cú pháp, và thị giác. Mỗi hệ thống vận hành theo những qui tắc khác nhau, nhưng mọi hệ thống đều có chung giả định về tầm mức hết sức quan trọng của sự ngắt dòng trong việc tập trung nguồn năng lượng biểu cảm và ý nghĩa của bài thơ.
3. Mọi yếu tố trong một bài thơ - mọi từ, chỗ xuống dòng, khổ thơ, chỗ thụt vào đầu dòng, thậm chí mọi dấu chấm câu - thảy đều chuyên chở tiềm năng biểu cảm ý nghĩa. Nếu bạn không định hình tính biểu cảm ở dạng tiềm năng này, thì mỗi chi tiết thụ động sẽ làm suy yếu sức mạnh tổng thể của bài thơ. Những yếu tố tiêu cực này là trọng lượng nặng bất động [dead weight] mà bài thơ buộc phải chuyên chở.
4. Phải có một lí do khiến mỗi dòng thơ chấm dứt ở chỗ nó chấm dứt. Những chỗ xuống dòng không hề trung tính(1). Sự ngắt dòng là nguyên tắc cấu thành cơ bản và chủ yếu của thơ. Là nam hay nữ thì người đọc hoặc nghe thơ cũng không cần phải hiểu được bằng tâm trí cái nguyên tắc đằng sau mỗi chỗ xuống dòng, nhưng phải cảm nhận được bằng trực giác sự thích hợp và thẩm quyền của nguyên tắc đó.
5. Mục đích của sự ngắt dòng trong thơ là để thiết lập một nhịp điệu của sự trông chờ nhằm gia tăng sự chú tâm và sức hiểu của người nghe. Mục đích của kỹ thuật thơ, đặc biệt là của nhịp thơ [với số âm tiết được qui định], là làm say mê người nghe - tạo ra một trạng thái thôi miên dịu nhẹ giúp làm giảm thiểu sự kháng cự và làm gia tăng sự chú tâm của người nghe. Thơ tự do thiếu vắng cái nhịp điệu đều đặn tác động vào cơ thể của thơ vần luật, nhưng nó tìm kiếm cũng cái tác động đó vào những dây thần kinh bằng những biện pháp khác. Sự ngắt dòng là nguyên tắc cấu tạo trung tâm [quan yếu nhất] của thơ tự do.(2)
6. Những lí do qui định độ dài của dòng thơ phải là nhất quán trong một bài thơ - trừ khi có sự cần thiết cực kì lớn về mặt biểu cảm khiến phải vi phạm những lí do đó. Cần có thời gian và nghị lực để thiết lập một mô hình nhằm tạo được sự trông chờ nơi người đọc/nghe thơ. Nếu quá dễ dãi trong việc vi phạm, hoặc thường xuyên vi phạm, thì mô hình thống lĩnh, chỉ đạo sẽ bị phá vỡ. Một mô hình được thực hiện một cách tệ hại thì còn tệ hại hơn là không có mô hình. Và không có một mô hình tạo được sự biểu cảm thì không có thơ.
7. Mỗi bài thơ phải có một dòng thơ làm mẫu mực. Độ dài làm chuẩn mực cho dòng thơ phải là rõ ràng - để người nghe hoặc đọc thơ thấy được sự rõ ràng đó, một cách ý thức hoặc vô thức. Chuẩn mực đó phải được duy trì suốt bài thơ, trừ trường hợp có sự thay đổi do đòi hỏi của tính biểu cảm về mặt ý nghĩa của bài thơ. Sau mỗi sự xáo trộn, tức là sau những sự thay đổi như đã nói trên, bài thơ sẽ trở về với độ dài chuẩn mực của dòng thơ hoặc là một chuẩn mực mới sẽ được tạo ra. Giá trị biểu cảm của tất cả những xáo trộn đó phải lớn hơn so với sự mất mát cái đà đẩy tới [cái động lượng hoặc xung lượng] của bài thơ và sự hủy hoại sức quyến rũ của mô hình.(3)
8. Mỗi dòng thơ có hai phận sự bổ sung cho nhau - đảm nhiệm tốt vai trò của nó bên trong mô hình tổng thể của bài thơ, và chính nó phải là hiện thân của sức mạnh của ngôn ngữ thơ. Bài thơ thành tựu thì không chỉ tạo được sự cân bằng giữa hai phận sự khác biệt đó, mà còn sử dụng chúng như những bạn nhảy trong một vũ điệu tập thể [seamless dance].(4) Trừ phi chúng [hai phận sự đó] nhảy múa cùng nhau, bằng không thì không có thơ, mà chỉ là ngôn ngữ có vần điệu.
9. Mỗi dòng thơ phải có được một sức mạnh biểu cảm độc lập nào đó. Chỉ đủ để lấp đầy cái mô hình của bài thơ không thôi, thì không đủ để biện minh cho sự hiện hữu của một dòng thơ. Một dòng thơ phải có được một sức sinh động độc lập nào đó của từ ngữ xét về mặt nhạc tính, tưởng tượng hoặc tường thuật. Một dòng thơ riêng lẻ là một thế giới vi mô, là hệ thống thu nhỏ của toàn bộ bài thơ. Nó phải là hiện thân của những điểm ưu việt của tổng thể. Với lợi thế như vậy, nên đây chính là lí do khiến thơ là thứ văn bản có thể cắt xén để làm trích dẫn [mà không cần nêu toàn bộ ngữ cảnh].
10. Sự ngắt dòng nhằm cho người đọc biết phải nghe, nhìn, và hiểu bài thơ như thế nào. Xét như nguyên tắc chính thức và chủ yếu của thơ, sự ngắt dòng thiết lập những mô hình thính giác và ngữ nghĩa của bài thơ. Sức mạnh chính thức và tổng thể của bài thơ không thể được tựu thành nếu sự ngắt dòng bị thực hiện cẩu thả.
11. Những từ cuối dòng là biểu hiện của một trong những yếu tố biểu cảm mạnh mẽ nhất của thể thơ. Những dòng thơ đổi hướng ở từ cuối dòng.(5) Điểm đổi hướng thể hiện bằng lời này, dẫu khi không có vần, cung cấp tiềm lực dồi dào để tạo tác động đầy ý nghĩa.
12. Từ cuối một dòng thơ phải gánh vác trọng trách của việc thẩm tra về mặt tưởng tượng hoặc nhạc tính. Từ cuối dòng luôn được chú mục và lắng nghe [vì nó nổi bật]. Đừng bao giờ dứt dòng bằng những từ yếu, trừ trường hợp do đòi hỏi mạnh mẽ về mặt biểu cảm. Những từ cuối dòng - dẫu có vần hoặc không vần - phải tạo ra được sinh lực [sức sống] cho bài thơ.
13. Sự ngắt dòng hầu như luôn được nghe thấy (và luôn được nhìn thấy), cho dẫu đó chỉ là một sự tạm ngưng hoặc một âm vang rất nhỏ. Người ta không nghe thấy vạch nhịp [bar] trong âm nhạc, nhưng người nghe được tôi luyện bao giờ cũng biết rằng vạch nhịp đó nằm ở đâu, nhờ vào khuôn khổ của những nốt nhạc bao quanh nó. Vì sự ngắt dòng thì nổi bật như thế, nên nó phải được sử dụng vào mục đích tạo tác động về mặt biểu cảm. Nếu nó không thực hiện được điều đó cho bài thơ, thì nó sẽ phản lại bài thơ.
Phạm Kiều Tùng dịch và chú thích
(Nguyên tác: “Thirteen Ways of Thinking About The Poetic Line” by Dana Gioia).
Chú thích
(1) Trung tính (neutral) còn hàm ý là không có tính chất rõ rệt hoặc tích cực.
(2) Physical (the steady physical beat of metrical poetry): nhiều nghĩa: thuộc vật chất, thuộc cơ thể/thân thể, thuộc tự nhiên, thuộc vật lí… Xin tạm dịch là “thuộc về cơ thể/thân thể”, vì người dịch tạm hiểu như sau: thơ vần luật có âm tiết được qui định, tỉ dụ thơ năm âm tiết pentameter hoặc thơ sáu âm tiết hexameter, hoặc tỉ như thơ ngũ ngôn hoặc lục bát, cái nhịp đều đặn đó tác động vào cơ thể, hiểu theo nghĩa ta biết trước là thơ lục bát, thì đọc xong câu lục (sáu chữ) ta có thể ngưng một chút (có thể hiểu nôm na là để lấy hơi, tỉ dụ vậy) rồi mới đọc câu bát (tám chữ). Cũng xin tạm thêm ba chữ “tác động vào (cơ thể)” vì sau đó tác giả viết rằng thơ tự do cũng tìm kiếm the same neural effect, cũng tìm kiếm cái tác động đó (same effect), và là cái tác động vào dây thần kinh (neural - nghĩa là của cơ thể): do vậy, xin tạm dịch cái steady physical beat một cách dài dòng là nhịp điệu đều đặn tác động vào cơ thể.
(3) Xin tạm dịch spell (pattern’spell) là sự quyến rũ vì liên hệ từ này với khái niệm gentle hypnotic state bên trên. [Xin ghi ra đây toàn văn paragraph 5: The purpose of lineation in verse is to establish a rhythm of expectation that heightens the listener’s attention and apprehension. The purpose of poetic technique, especially meter, is to enchant the listener—to create a gentle hyp- notic state that lowers the listener’s resistance and heightens attention. Free verse lacks the steady physical beat of metrical poetry, but it seeks the same neural effect by different means. Lineation is the central organizing principle of free verse.]
1. Xin tạm dịch seamless dance là vũ điệu tập thể.
2. Versus, tiếng La-tinh, có nghĩa a line, row, verse: một dòng; một hàng, dãy; một dòng thơ, câu thơ. Nhưng nghĩa gốc, nguyên thủy, của từ versus là “quay lưỡi cày để tạo những luống cày trên cánh đồng” - do vậy nên “sự quay” [đổi hướng] là một trong những ẩn dụ thống lĩnh, chỉ đạo cổ xưa để nói về thơ và kĩ thuật thơ.
Williams Carlos Williams
DAWN Ecstatic bird songs pound the hollow vastness of the sky with metallic clinking – beating color up into it at a far edge, - beating it, beating it with rising, triumphant ardor, - stirring it into warmth, quickening in it a spreading change, - bursting wildly against it as dividing the horizon, a heavy sun lifts himself - is lifted - bit by bit above the edge of things, - runs free at last out into the open! - lumbering glorified in full release upward – songs cease. |
BÌNH MINH Những tiếng chim hót mê ly dộng vào khoảng không bao la của bầu trời với tiếng kim lách cách - âm thanh biến tấu đập mạnh vang xa, - đập mạnh, đập mạnh với sự ngoi lên của mặt trời, hừng hực hân hoan, - khuấy cho bầu trời ấm nhanh sự thay đổi lan rộng, - bùng vỡ một cách cuồng nhiệt tương phản với bầu trời chia đôi đường chân trời, mặt trời nặng nề tự nhô lên - được nhô lên - từ từ khỏi làn biên bình minh - cuối cùng tự do tuôn vào khoảng không mở ra - sự di chuyển vụng về được ngợi ca trong ánh sáng tỏa lên tràn đầy - những tiếng hót chấm dứt. |
Khế Iêm dịch
Paul Henry
DAYLIGHT ROBBERY Silent as cut hair falling and elevated by cushions in the barber’s rotating chair this seven-year-old begins to see a different boy in the mirror, glances up, suspiciously, like a painter checking for symmetry. The scissors round a bend behind a blushing ear. And when the crime’s done, when the sun lies in its ashes, a new child rises out of the blond, unswept curls, the suddenly serious chair that last year was a roundabout. All the way back to the car a stranger picks himself out in a glass-veiled identity parade. Turning a corner his hand slips from mine like a final, forgotten strand snipped from its lock. |
CƯỚP BAN NGÀY Im lặng như tóc cắt rơi xuống và được nâng lên bởi chiếc ghế xoay bọc nệm của người thợ hớt tóc đứa bé bảy tuổi này bắt đầu nhìn thấy đứa con trai khác trong gương, liếc qua, một cách đáng ngờ, như một họa sĩ đang cân đối màu sắc. Chiếc kéo chấn một đường cong đằng sau vành tai ửng đỏ. Và khi việc hớt tóc xong, khi tóc vàng nằm trong những vụn tóc trên sàn nhà, một đứa trẻ mới đứng lên, từ những lọn tóc vàng chưa quét, từ chiếc ghế xoay năm trước đột nhiên quan trọng. Trên đường trở ra xe một kẻ lạ tự nhận dạng trong khung kính cửa sổ in bóng người qua lại. Tới một góc rẽ đứa con trai chia tay bóng hình mình, kẻ lạ, trong khung kính cửa như chỗ tóc cuối cùng bị lãng quên cắt ra từ mớ tóc. |
Khế Iêm dịch
Chú thích
Crime: việc cắt tóc làm thay đổi hình dạng đứa trể là một tội; Sun (mặt trời): tóc vàng; Ashes (tàn tro): vụn tóc bị cắt rơi trên sàn nhà.
* Paul Henry là một nhà thơ Anh. Bài thơ được rút ra từ tập thơ “The Brittle Sea”, 2010, do tác giả gửi tặng.
____________________
Note
The readers read the poem in its original language, listening for the rhymes and rhythms and linguistic techniques that were employed in the original language, and then re-reading the Vietnamese translation to glean the meaning. That is the process which a reader must go through in order to fully enjoy a poem
Người đọc thơ, đọc nguyên bản để lắng nghe âm thanh và nghệ thuật của ngôn ngữ và đọc bản dịch tiếng Việt để nắm bắt ý thơ. Lúc đó mới hoàn tất qui trình đọc và người đọc sẽ thưởng thức bài thơ một cách toàn vẹn.
(SH315/05-15)
THU TRANG (Pháp)Vài tháng nay ở Pháp đã rộn ràng xảy ra nhiều chuyện đáng để chúng ta suy nghĩ. Có lẽ trước hết là việc chiếc tàu Erika chở dầu đã bị vỡ hầm chứa ngoài khơi, biển Bretagne vùng Tây nước Pháp. Một đại nạn! Dầu đã bị sóng đưa vào bờ làm đen bẩn hầu hết các bờ biển, bãi tắm nổi tiếng.
NGUYỄN VĂN DŨNGSakuya là vị nữ thần cực kỳ xinh đẹp của xứ mặt trời mọc. Nàng là người đầu tiên tự tay gieo hạt giống cây anh đào trên núi Phú Sĩ. Mùa xuân hoa anh đào nở, đẹp cái đẹp lộng lẫy mê hồn của nàng. Bởi thế, người Nhật gọi hoa anh đào là Sakura - đọc trại từ Sakuya. Ngày nay, hoa anh đào đã có nhiều loại và mọc nhiều nơi, nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa anh đào ở núi Phú Sĩ.
VŨ LÊ THÁI HOÀNGTrong ánh nắng vàng rực tuyệt đẹp, giữa một New York hối hả, tấp nập, tua tủa nhà chọc trời, kiêu hãnh hiện ra bóng hình một phụ nữ khổng lồ tay cầm ngọn đuốc cháy sáng soi đường vào Tân Thế Giới.
ĐẶNG THỊ HẠNHMùa rét năm ấy ở Paris đã không có tuyết. "Một điều rất đặc biệt", ông Xuân Thủy nói với tôi như vậy khi tôi đi dạo với ông trong khu vườn bao quanh một cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp dành riêng cho phái đoàn thương lượng của ta ở Paris .
HÀ PHẠM PHÚTôi chọn cái tựa trên cho bài viết một phần vì tôi bị ám ảnh bởi bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ của Kim Dung và bài của Quách Phong, một nhà nghiên cứu trẻ công tác tại đài phát thanh truyền hình châu Đại Lý - viết về chuyến thăm Đại Lý của nhà văn rất nổi tiếng này.
VÕ QUANG YẾNNúi cao cũng có đường trèo,Đường đi hiểm nghèo cũng có lối di. Ca dao
VÕ QUANG YẾNNguyễn Hải Đang, 20 tuổi xuân xanh, xúng xính trong bộ y phục mới tinh trường Bách Khoa Ecole Polytechnique, thường được gọi tắt là X.
NGUYỄN VĂN DŨNGKathmandu là kinh đô của vương quốc Nepal, nằm dưới chân Hy mã Lạp sơn. Là thành phố của tôn giáo và nghệ thuật, của nghi thức và lễ hội, của cổ kính và hiện đại, của thánh thiện và tâm linh, của suy tư và khát vọng, của du lịch và mộng mơ, của nắng gió và tuyết. Ngày nay, Kathmandu còn là thành phố của thanh bình và chiến tranh.
PHẠM THỊ ANH NGABài này nhằm giới thiệu một vài nét về diện mạo thi ca Pháp và một số hoạt động liên quan đến thơ trong xã hội Pháp những năm gần đây.
ĐINH CƯỜNGViện Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg, Paris vừa chấm dứt cuộc triển lãm qui mô, hàng trăm bức tranh của một họa sĩ lẫy lừng, bi thảm nhất thế kỷ hai mươi: Amedeo Modigliani.
ĐẶNG TIẾNNước Pháp có những thành phố nhỏ, lừng danh nhờ một sinh hoạt văn hoá. Ví dụ như Cannes, Deauville với những Đại Hội Điện Ảnh. Hay Angoulême nổi tiếng từ 30 năm nay với truyền thống Festival Quốc Tế Truyện Tranh BD, do chữ Bande Dessinée viết tắt, có nghĩa là băng hoạt họa (strip cartoon). Thành phố lịch sử với năm vạn dân, cách Paris hơn 400 km về phía Tây Nam, từ ngày 23 đến 26 tháng 1-2003, trở thành trung tâm thế giới về nghệ thuật Truyện Tranh BD, lần thứ 30.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Ghi chépMột chiều cuối đông năm ngoái tại góc Quán Cũ 25 Phan Đình Phùng, khi biết chúng tôi chuẩn bị chuyến khảo sát văn hóa tại Nhật Bản, giáo sư Đại học ngoại ngữ Tokyo Kawaguchi đề nghị chúng tôi nên bố trí kế hoạch đến Nhật vào mùa xuân để còn kịp ngắm hoa anh đào. Y lời, đúng ngày mở đầu tháng Tư năm nay, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, Viện trưởng Viện Văn học và tôi lên đường công du sang Nhật khi biết chắc hoa anh đào đã nở.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Ghi chép Truyền thống trong hội nhập...Rời xe bus số 64 chúng tôi rảo bộ trên con đường lát đá tảng của phố Della Concilia Zionli giữa hai hàng cột đá trông như những ngọn nến khổng lồ để đến với nơi mà bất kỳ người dân công giáo nào cũng hằng mơ ước.
NGUYỄN VĂN DŨNG KýSau gần nửa tháng rong chơi suốt hai đầu thượng hạ Ai Cập, tôi trở lại Paris chuẩn bị chuyến du hành sang Hy Lạp. Bỗng được tin của Văn Cầm Hải từ quê nhà: “Thầy về gấp. Đi Tây Tạng ngày 15/9”. Tôi quyết định ngay. Lúc ấy tôi không hiểu vì sao. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao.
NGUYỄN VĂN DŨNGTôi mới có ý định leo núi Phú Sĩ trên đường từ Tokyo về cố đô Kyoto. Chiếc tàu siêu tốc chạy ngang qua vùng núi Fuji. Bên ngoài, trông Fuji hùng vĩ và đẹp hơn trong ảnh nhiều. Trên nền xanh thẳm của Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu, hai cánh núi từ tít tắp hai đầu Bắc Nam như đôi tình nhân thiên thu gặp lại, tràn về phía nhau. Và khi gặp nhau, cả hai hoà thành một, rồi bay vút lên trời, xuyên qua mấy tầng mây, để lộ giữa thinh không cao ngút cái chỏm mĩ miều như đầu ngọn bút lông.
TRẦN LỘC HÙNG1. Bạn bè tôi thường nói: “Không hiểu nước Nga nuôi mày kiểu gì mà tới bây giờ mày vẫn yêu nước Nga”. Vợ con tôi cũng vậy. Nước Nga dưới con mắt của những người thân của tôi hoàn toàn khác tôi. Đơn giản vì tôi đã tới nước Nga từ những năm tôi mới 17 tuổi, hơn nữa tôi đã sống, học tập và làm việc ở nước NGA ngót nghét 10 năm.
NGUYỄN VĂN DŨNG Bút kýChuyện kể rằng, vào một ngày tuyết trắng Tây kinh, Võ Tắc Thiên bỗng cao hứng lệnh cho tất cả loài hoa, nội trong một đêm phải nở hết. Sáng hôm sau, tuy giữa mùa đông giá lạnh, các loài hoa đều ríu rít nở, trừ... mẫu đơn. Võ Tắc Thiên giận lắm, bèn phán đày mẫu đơn xuống Lạc Dương cho khuất mắt. Từ đó, Lạc Dương trở thành quê hương của hoa mẫu đơn.
LÊ BÁ THỰ Bút kýNhận lời mời của Bộ Văn hoá và Viện sách Ba Lan, tôi đi dự Đại hội Dịch giả Văn học Ba Lan toàn thế giới lần thứ nhất. Sau khi đến Vacsava, sáng 11 tháng 5 tôi đáp xe lửa xuống Krakow , thành phố cách thủ đô Vacsava trên 300 cây số. Ngồi bên cửa sổ con tàu, tôi ngắm cảnh mùa xuân hai bên đường: những rừng thông tươi tốt, những cánh đồng lúa mì xanh xanh trải dài tít tận chân trời.
VI THÙY LINH Tuỳ bútNgười Trung Quốc (TQ) có câu: “Trên trời có thiên đàng, dưới có Tô Châu, Hàng Châu”. Chỉ thoạt nghe, đã thấy người ta thật tự hào, về cảnh đẹp thành phố (TP) này đến thế nào, trên đất Đại lục dày đặc thắng cảnh, di tích, kỳ quan của Trung Hoa cẩm tú.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNG Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.