Dấu ấn nghệ thuật đương đại đã xuất hiện ở đây, đem lại một nét đẹp mới lạ cho Sông Hương nói riêng và thành phố Huế nói chung. Đó là sự đan xen giữa tính đột phá của nghệ thuật đương đại và màu rêu phong của một vùng đất văn hóa trầm tích. Những tác phẩm này luôn là điểm dừng chân thưởng ngoạn của du khách thập phương
Chắc chắn mỗi du khách sẽ có những kiến giải riêng khi đứng trước những nghệ phẩm này. Hẳn không ít người trong số họ sẽ hoài nghi đâu là giá trị nghệ thuật của chúng và liệu rằng, đây có phải là những tác phẩm đích thực. Rốt cuộc ai là người dẫn đạo đưa người xem đi vào khai phá giá trị thẩm mỹ của chúng. Bị chế ngự bởi những xúc cảm trái chiều là điều có thể nói đối với tâm lý của người thưởng lãm. Cảm nhận đầu tiên có thể là sự vô nghĩa lý. Đây là trò chơi, sự tạo tác của những nghệ sĩ ngông cuồng? Bởi xét theo tiêu chí của sự tri giác thì trông chúng hoàn toàn đơn điệu, gây cho người xem một cảm giác khô cứng. Hay là thế giới rộng lớn của những giá trị biểu đạt khác nhau do chức năng thẩm mỹ của chúng mang lại? Thực tế đâu là căn nguyên của giá trị nghệ thuật đích thực ở những công trình này?
Tường giải ý niệm của chúng không phải là một điều bất khả. Tuy nhiên để tránh khỏi những diễn giải hàm hồ chúng ta cần viện dẫn các đặc trưng của nghệ thuật đương đại. Hầu hết những tác phẩm này đều lệch pha đến tận gốc rễ đối với hiện thực khách quan, vượt xa sự mô phỏng. Phải chăng đến nghệ thuật đương đại, sự mô phỏng lâm vào một trạng huống đầy bi kịch khi người nghệ sĩ luôn tìm mọi cách để biến tác phẩm của mình có những lệch pha so với hiện thực. Không ít trường phái nghệ thuật đã khước từ sự mô phỏng, tìm đến một hiện thực phì đại để khai triển tác phẩm của mình. Giờ đây người nghệ sĩ muốn thách thức tri nhận của người thưởng thức về mối quan hệ giữa nghệ thuật mô phỏng và thực tại. Sự mô phỏng thực tại đã bị khúc xạ không còn hình dạng khởi nguyên của nó. Đối với Plato và Aristotle, nghệ thuật là sự mô phỏng, mô phỏng là điều cần và đủ cho những kiểu dạng thực hành nào đó được gọi là nghệ thuật. Theo sự biện giải của các tiên triết này thì X là một nghệ phẩm khi và chỉ khi nó là sự mô phỏng. Nay đứng trước những công trình nghệ thuật này quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng liệu có đi vào mùa hoàn kết của nó? Bởi nếu thưởng lãm chúng theo sự chi phối của lý tính thuần túy thì việc khai mở giá trị tự thân của chúng là một điều bất khả. Và liệu có phải chấp nhận quyền năng siêu nghiệm trong việc tường giải nghệ thuật đương đại. Để cảm nhận được những tác phẩm này cần tránh việc đặt chúng thông qua cách nhìn duy lý; đó là cái nhìn gò ép, chủ quan và khô cứng. Tác phẩm không còn là bản sao của sự mô phỏng mà là những bí ẩn nằm trong cõi nội giới người. Đó là thế giới của tưởng tượng, thế giới bất thường nằm ngoài mọi quy luật, một thế giới bất tín nhận thức. Ở đó chúng ta không thể nhìn thấy sự thật trần trụi một cách hiển nhiên trong không gian và thời gian mà phải đi tìm cái không hiện hữu, cái nghiệm sinh của mỗi chúng ta. Nghệ thuật đương đại không vẽ lại nguyên xi hiện thực mà giành quyền tối thượng cho cảm xúc và siêu nghiệm. Nghệ thuật đương đại khai phá những vùng hỗn độn trong chiều sâu nội cảm để kiến giải những bề khuất lấp, những hoang tưởng, mơ tưởng, những ảo giác không thực và kể cả những ngoại cảm. Nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại muốn đặt dấu chấm lửng hơn là đưa ra một kết luận. Thông qua những tác phẩm kiểu như vậy nghệ thuật đương đại muốn loan báo về một trật tự mới, trật tự siêu nghiệm trong vũ trụ nội cảm. Việc từ chối những hình tượng đã đông cứng trong tầng bao quát của lý tính đã tạo nên những dạng thức siêu hình tượng nằm sâu trong con mắt của tâm thức. Như vậy, ở đây, sự mô phỏng đã lùi bước trước trí tưởng tượng trong chiều sâu của tiềm thức. Có thể giá trị thẩm mỹ của những nghệ phẩm này là được soi rọi từ trong cõi nội giới rồi dội ngược trở lại thách đố lý tính tạo ra những góc độ mới trong cách kiến giải về thế giới hiện thực thậm phồn trong nghệ thuật hiện nay.
Phải chăng chúng là sự thách đố đối với diễn giải. Liệu rằng có phải đã đến lúc việc chấp nhận quyền năng siêu nghiệm của nghệ thuật đã thay chỗ của những diễn giải tường minh? Và có phải thực sự rằng sau những tác phẩm này người sáng tạo đã bài trừ quan niệm mô phỏng để vươn tới tính siêu nghiệm và những giá trị ẩn tàng trong nghệ thuật? Nếu nghệ thuật khước từ mô phỏng vậy thì yếu tố nào xác định chân giá trị của chúng. Khi đã vượt qua sự sao chép hiện thực một cách nguyên xi thì nghệ thuật có cần phải tìm đến sự định hướng của những diễn giải để biện minh và phác thảo chân giá trị của mình hay không? Nói như triết gia Danto thì “Không có gì trở thành một nghệ phẩm nếu thiếu đi một diễn giải giúp nó trở thành như thế”. Nhưng làm thế nào để diễn giải có thể tường giải ý nghĩa của chúng. Phải chăng đang có một khoảng trống giữa cảm quan của nghệ sĩ kiến tạo và khả năng tìm đến cái đẹp tiềm ẩn của người thưởng thức nghệ thuật. Cái gì sẽ lấp đầy khoảng trống đó. Thiết nghĩ sự dịch chuyển quan niệm thẩm mỹ trong nghệ thuật không phải là phút chốc, nó cần một quá trình hoài thai và vận động của tư tưởng trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ và người thưởng thức nghệ thuật. Cái đẹp ở những tác phẩm kiểu như thế này sẽ xuất hiện khi người thưởng thức có một cảm quan và bề dày về lý thuyết nghệ thuật. Khi đạt tới đỉnh điểm của sự chiêm nghiệm và liên tưởng thì khoái cảm thẩm mỹ sẽ tuôn trào như những dòng nham thạch cuộn chảy. Cái đẹp của tác phẩm sẽ được người thưởng thức lĩnh hội và người nghệ sĩ cũng từ đó thoát khỏi sự cáo buộc là những “kẻ chơi khăm” hay là những “nhà cuồng tưởng”. Và thiết nghĩ khi có những diễn giải tân thời phù hợp với tác phẩm và tâm lý đám đông thì giá trị thẩm mỹ của chúng cũng được thăng hoa. Nhưng liệu đâu là những diễn giải kiểu như thế khi người nghệ sĩ không tự đem ra một cách diễn giải riêng cho nghệ phẩm của mình. Nói tóm lại cái đẹp luôn nằm trong dạng thức kết cấu vẫy gọi của nghệ phẩm, ở quyền năng khai phá của người thưởng thức cũng như ở sự thẩm định của các chuyên gia. Cũng cần phải xét đến không gian “sống” của những tác phẩm này. Vì sao người nghệ sĩ lại lựa chọn công viên để trưng bày tác phẩm của họ? Phải chăng muôn đời người làm nghệ thuật vẫn phải bám víu vào đám đông, và sự nhận định của đám đông vẫn mãi là chân lý? Đám đông vẫn là những người ấn định cho những chuẩn mực thẩm mỹ mang tính phổ quát, hướng nghệ thuật đương đại đi đến một sự thấu thị hoàn mỹ? Không gian trưng bày này đem lại những hiệu ứng khác nhau. Nhiều người cho rằng nghệ sĩ đang cố tình chơi khăm, thách thức khả năng vượt thoát lý tính thuần túy của những ai mang cảm quan nghệ thuật cổ điển. Lại có người xem đó là bước đột phá trong nghệ thuật đương đại và đó mới chỉ là sự mở màn để tiên báo về một sự bùng nổ của những kiểu dạng nghệ thuật tương tự sẽ xuất hiện trên thành phố Huế trong tương lai không xa. Đây là một tác phẩm hết sức độc đáo được trưng bày tại công viên 3-2:
Mỗi tác phẩm luôn có một cái tên, đó là hành động định danh của người nghệ sĩ cho đứa con tinh thần của mình. Thông qua việc định danh đó người nghệ sĩ vạch ra một chiều hướng nào đó cho người xem trong việc truy tìm ý niệm của tác phẩm. Hiện nay trên tác phẩm không có một ghi chép nào về xuất xứ, tên tác giả và tên tác phẩm. Nhưng đôi khi chính vì thế mà nghệ phẩm dung chứa một biên độ vô hạn trong nội tại ý niệm của nó. Phải chăng qua tác phẩm người sáng tạo muốn cảnh báo về tấn bi kịch khủng hoảng năng lượng trong thời hiện tại, và đã đến lúc con người cần được cảnh tỉnh bởi những tham vọng muốn chế ngự thiên nhiên để tồn sinh. Qua tác phẩm người xem có thể liên tưởng đến một thế giới đã bị xô lệch đến tận gốc rễ và con người đang dần bước vào mùa hủy diệt nếu không được đánh thức. Trong dòng chảy của nghệ thuật đương đại, tác phẩm sau đây độc đáo bởi khả năng khơi gợi suy niệm của nó:
Tác phẩm được trưng bày tại công viên Quốc Học với sự tẩy trắng hoàn toàn về lịch sử và tên gọi, mở ra cho người xem nhiều nhận định đa chiều. Thoạt nhìn, nó hầu như không thể gợi lên một cái gì đó gọi là khoái cảm thẩm mỹ cho người thưởng thức nghệ thuật. Nhìn vào nó những người thô kệch nhất cũng có thể tự vỗ ngực và tuyên cáo rằng mình cũng sẽ kiến tạo được những nghệ phẩm tương tự. Những sợi thép tạo thành hai tòa nhà cao tầng vươn lên trời xanh, kẹt giữa hai tòa nhà vô tận đó là một hình nhân, cũng được tạo thành từ những sợi thép nhưng nhỏ hơn. Người nghệ sĩ muốn nói gì thông qua tác phẩm khi chính anh ta cũng không định danh cho tạo tác của mình? Phải chăng con người hiện đại đã bị đông cứng và lâm vào một quái trạng bất khả tri nhận về thực tại xung quanh. Ở đấy chúng ta có quyền biện giải rằng con người đã bị tẩy trắng và trở nên đông cứng trong sự vươn lên không ngừng của khoa học hiện đại. Con người cũng trở thành một thứ chất liệu như bao dạng chất liệu xây dựng khác. Rõ ràng những tác phẩm kiểu như thế này sẽ là những thách thức đối với diễn giải. Nhưng mỗi khi đã bóc được những lớp ý niệm dồn nén trong chúng thì chức năng phản ánh thực tại của chúng trở nên vô cùng tận. Các công trình nghệ thuật nói trên luôn tiềm ẩn sự vẫy gọi đối với những kiến giải khác nhau, và dù có dựa bao nhiêu lần vào sự ngông cuồng của ngôn ngữ cũng không thể tường giải hết các ý niệm tiềm ẩn trong chúng. Trên thực tế người nghệ sĩ luôn là kẻ tiên tri thấu thị gánh vác sứ mệnh dẫn đạo trên con đường theo đuổi những giá trị khai minh, và một khi chưa có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với những người tạo ra tác phẩm thì mọi diễn giải chỉ là những nhận định không thoát khỏi sự quy thúc chủ quan. Những tác phẩm này luôn chờ đợi những kiến giải sâu sắc hơn, hoàn bị và nhiệt tâm hơn để cho chúng xứng tầm hơn trong sứ mệnh tôn vinh và nối kết văn hóa Huế với dòng văn hóa đương đại đang cuộn chảy trên thế giới. Huế, 31 -12 -2010 L.M.P (265/3-11) |
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.
LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.
VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?
TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.
TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam (Huế)
FRED MARCHANT(*) Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.
TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.
TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.
MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.
PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).
TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.
Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.
Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.
I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.
Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.
LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.