Một vài suy ngẫm về các công trình nghệ thuật đương đại bên bờ sông Hương

09:16 13/04/2011
LÊ MINH PHONGDọc theo đôi bờ Sông Hương, nơi có những công viên quyến rũ là điểm trưng bày của một số công trình nghệ thuật.
Dấu ấn nghệ thuật đương đại đã xuất hiện ở đây, đem lại một nét đẹp mới lạ cho Sông Hương nói riêng và thành phố Huế nói chung. Đó là sự đan xen giữa tính đột phá của nghệ thuật đương đại và màu rêu phong của một vùng đất văn hóa trầm tích.

Những tác phẩm này luôn là điểm dừng chân thưởng ngoạn của du khách thập phương

Tác phẩm Nhớ Huế của Lều Thị Phương, chất liệu đá trắng, trưng bày tại công viên 3-2


Chắc chắn mỗi du khách sẽ có những kiến giải riêng khi đứng trước những nghệ phẩm này. Hẳn không ít người trong số họ sẽ hoài nghi đâu là giá trị nghệ thuật của chúng và liệu rằng, đây có phải là những tác phẩm đích thực. Rốt cuộc ai là người dẫn đạo đưa người xem đi vào khai phá giá trị thẩm mỹ của chúng. Bị chế ngự bởi những xúc cảm trái chiều là điều có thể nói đối với tâm lý của người thưởng lãm. Cảm nhận đầu tiên có thể là sự vô nghĩa lý. Đây là trò chơi, sự tạo tác của những nghệ sĩ ngông cuồng? Bởi xét theo tiêu chí của sự tri giác thì trông chúng hoàn toàn đơn điệu, gây cho người xem một cảm giác khô cứng. Hay là thế giới rộng lớn của những giá trị biểu đạt khác nhau do chức năng thẩm mỹ của chúng mang lại? Thực tế đâu là căn nguyên của giá trị nghệ thuật đích thực ở những công trình này?

Tác phẩm: Bậc thang lên trời của Thomas F. Morrissey (Mỹ). Chất liệu đá xám, trưng bày tại công viên 3-2


Tường giải ý niệm của chúng không phải là một điều bất khả. Tuy nhiên để tránh khỏi những diễn giải hàm hồ chúng ta cần viện dẫn các đặc trưng của nghệ thuật đương đại. Hầu hết những tác phẩm này đều lệch pha đến tận gốc rễ đối với hiện thực khách quan, vượt xa sự mô phỏng. Phải chăng đến nghệ thuật đương đại, sự mô phỏng lâm vào một trạng huống đầy bi kịch khi người nghệ sĩ luôn tìm mọi cách để biến tác phẩm của mình có những lệch pha so với hiện thực. Không ít trường phái nghệ thuật đã khước từ sự mô phỏng, tìm đến một hiện thực phì đại để khai triển tác phẩm của mình. Giờ đây người nghệ sĩ muốn thách thức tri nhận của người thưởng thức về mối quan hệ giữa nghệ thuật mô phỏng và thực tại. Sự mô phỏng thực tại đã bị khúc xạ không còn hình dạng khởi nguyên của nó. Đối với Plato và Aristotle, nghệ thuật là sự mô phỏng, mô phỏng là điều cần và đủ cho những kiểu dạng thực hành nào đó được gọi là nghệ thuật. Theo sự biện giải của các tiên triết này thì X là một nghệ phẩm khi và chỉ khi nó là sự mô phỏng. Nay đứng trước những công trình nghệ thuật này quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng liệu có đi vào mùa hoàn kết của nó? Bởi nếu thưởng lãm chúng theo sự chi phối của lý tính thuần túy thì việc khai mở giá trị tự thân của chúng là một điều bất khả. Và liệu có phải chấp nhận quyền năng siêu nghiệm trong việc tường giải nghệ thuật đương đại. Để cảm nhận được những tác phẩm này cần tránh việc đặt chúng thông qua cách nhìn duy lý; đó là cái nhìn gò ép, chủ quan và khô cứng. Tác phẩm không còn là bản sao của sự mô phỏng mà là những bí ẩn nằm trong cõi nội giới người. Đó là thế giới của tưởng tượng, thế giới bất thường nằm ngoài mọi quy luật, một thế giới bất tín nhận thức. Ở đó chúng ta không thể nhìn thấy sự thật trần trụi một cách hiển nhiên trong không gian và thời gian mà phải đi tìm cái không hiện hữu, cái nghiệm sinh của mỗi chúng ta. Nghệ thuật đương đại không vẽ lại nguyên xi hiện thực mà giành quyền tối thượng cho cảm xúc và siêu nghiệm. Nghệ thuật đương đại khai phá những vùng hỗn độn trong chiều sâu nội cảm để kiến giải những bề khuất lấp, những hoang tưởng, mơ tưởng, những ảo giác không thực và kể cả những ngoại cảm. Nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại muốn đặt dấu chấm lửng hơn là đưa ra một kết luận. Thông qua những tác phẩm kiểu như vậy nghệ thuật đương đại muốn loan báo về một trật tự mới, trật tự siêu nghiệm trong vũ trụ nội cảm. Việc từ chối những hình tượng đã đông cứng trong tầng bao quát của lý tính đã tạo nên những dạng thức siêu hình tượng nằm sâu trong con mắt của tâm thức. Như vậy, ở đây, sự mô phỏng đã lùi bước trước trí tưởng tượng trong chiều sâu của tiềm thức. Có thể giá trị thẩm mỹ của những nghệ phẩm này là được soi rọi từ trong cõi nội giới rồi dội ngược trở lại thách đố lý tính tạo ra những góc độ mới trong cách kiến giải về thế giới hiện thực thậm phồn trong nghệ thuật hiện nay.

Tác phẩm: Chuyển thể của Michael Bullock (Úc) Chất liệu đá cuội, nhôm đúc, trưng bày tại công viên 3 -2


Phải chăng chúng là sự thách đố đối với diễn giải. Liệu rằng có phải đã đến lúc việc chấp nhận quyền năng siêu nghiệm của nghệ thuật đã thay chỗ của những diễn giải tường minh? Và có phải thực sự rằng sau những tác phẩm này người sáng tạo đã bài trừ quan niệm mô phỏng để vươn tới tính siêu nghiệm và những giá trị ẩn tàng trong nghệ thuật?

Nếu nghệ thuật khước từ mô phỏng vậy thì yếu tố nào xác định chân giá trị của chúng. Khi đã vượt qua sự sao chép hiện thực một cách nguyên xi thì nghệ thuật có cần phải tìm đến sự định hướng của những diễn giải để biện minh và phác thảo chân giá trị của mình hay không? Nói như triết gia Danto thì “Không có gì trở thành một nghệ phẩm nếu thiếu đi một diễn giải giúp nó trở thành như thế”.

Nhưng làm thế nào để diễn giải có thể tường giải ý nghĩa của chúng. Phải chăng đang có một khoảng trống giữa cảm quan của nghệ sĩ kiến tạo và khả năng tìm đến cái đẹp tiềm ẩn của người thưởng thức nghệ thuật. Cái gì sẽ lấp đầy khoảng trống đó. Thiết nghĩ sự dịch chuyển quan niệm thẩm mỹ trong nghệ thuật không phải là phút chốc, nó cần một quá trình hoài thai và vận động của tư tưởng trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ và người thưởng thức nghệ thuật. Cái đẹp ở những tác phẩm kiểu như thế này sẽ xuất hiện khi người thưởng thức có một cảm quan và bề dày về lý thuyết nghệ thuật. Khi đạt tới đỉnh điểm của sự chiêm nghiệm và liên tưởng thì khoái cảm thẩm mỹ sẽ tuôn trào như những dòng nham thạch cuộn chảy. Cái đẹp của tác phẩm sẽ được người thưởng thức lĩnh hội và người nghệ sĩ cũng từ đó thoát khỏi sự cáo buộc là những “kẻ chơi khăm” hay là những “nhà cuồng tưởng”. Và thiết nghĩ khi có những diễn giải tân thời phù hợp với tác phẩm và tâm lý đám đông thì giá trị thẩm mỹ của chúng cũng được thăng hoa. Nhưng liệu đâu là những diễn giải kiểu như thế khi người nghệ sĩ không tự đem ra một cách diễn giải riêng cho nghệ phẩm của mình. Nói tóm lại cái đẹp luôn nằm trong dạng thức kết cấu vẫy gọi của nghệ phẩm, ở quyền năng khai phá của người thưởng thức cũng như ở sự thẩm định của các chuyên gia.

Cũng cần phải xét đến không gian “sống” của những tác phẩm này. Vì sao người nghệ sĩ lại lựa chọn công viên để trưng bày tác phẩm của họ? Phải chăng muôn đời người làm nghệ thuật vẫn phải bám víu vào đám đông, và sự nhận định của đám đông vẫn mãi là chân lý? Đám đông vẫn là những người ấn định cho những chuẩn mực thẩm mỹ mang tính phổ quát, hướng nghệ thuật đương đại đi đến một sự thấu thị hoàn mỹ?

Không gian trưng bày này đem lại những hiệu ứng khác nhau. Nhiều người cho rằng nghệ sĩ đang cố tình chơi khăm, thách thức khả năng vượt thoát lý tính thuần túy của những ai mang cảm quan nghệ thuật cổ điển. Lại có người xem đó là bước đột phá trong nghệ thuật đương đại và đó mới chỉ là sự mở màn để tiên báo về một sự bùng nổ của những kiểu dạng nghệ thuật tương tự sẽ xuất hiện trên thành phố Huế trong tương lai không xa.

Đây là một tác phẩm hết sức độc đáo được trưng bày tại công viên 3-2:


Mỗi tác phẩm luôn có một cái tên, đó là hành động định danh của người nghệ sĩ cho đứa con tinh thần của mình. Thông qua việc định danh đó người nghệ sĩ vạch ra một chiều hướng nào đó cho người xem trong việc truy tìm ý niệm của tác phẩm. Hiện nay trên tác phẩm không có một ghi chép nào về xuất xứ, tên tác giả và tên tác phẩm. Nhưng đôi khi chính vì thế mà nghệ phẩm dung chứa một biên độ vô hạn trong nội tại ý niệm của nó. Phải chăng qua tác phẩm người sáng tạo muốn cảnh báo về tấn bi kịch khủng hoảng năng lượng trong thời hiện tại, và đã đến lúc con người cần được cảnh tỉnh bởi những tham vọng muốn chế ngự thiên nhiên để tồn sinh. Qua tác phẩm người xem có thể liên tưởng đến một thế giới đã bị xô lệch đến tận gốc rễ và con người đang dần bước vào mùa hủy diệt nếu không được đánh thức.

Trong dòng chảy của nghệ thuật đương đại, tác phẩm sau đây độc đáo bởi khả năng khơi gợi suy niệm của nó:


Tác phẩm được trưng bày tại công viên Quốc Học với sự tẩy trắng hoàn toàn về lịch sử và tên gọi, mở ra cho người xem nhiều nhận định đa chiều.

Thoạt nhìn, nó hầu như không thể gợi lên một cái gì đó gọi là khoái cảm thẩm mỹ cho người thưởng thức nghệ thuật. Nhìn vào nó những người thô kệch nhất cũng có thể tự vỗ ngực và tuyên cáo rằng mình cũng sẽ kiến tạo được những nghệ phẩm tương tự. Những sợi thép tạo thành hai tòa nhà cao tầng vươn lên trời xanh, kẹt giữa hai tòa nhà vô tận đó là một hình nhân, cũng được tạo thành từ những sợi thép nhưng nhỏ hơn. Người nghệ sĩ muốn nói gì thông qua tác phẩm khi chính anh ta cũng không định danh cho tạo tác của mình? Phải chăng con người hiện đại đã bị đông cứng và lâm vào một quái trạng bất khả tri nhận về thực tại xung quanh. Ở đấy chúng ta có quyền biện giải rằng con người đã bị tẩy trắng và trở nên đông cứng trong sự vươn lên không ngừng của khoa học hiện đại. Con người cũng trở thành một thứ chất liệu như bao dạng chất liệu xây dựng khác. Rõ ràng những tác phẩm kiểu như thế này sẽ là những thách thức đối với diễn giải. Nhưng mỗi khi đã bóc được những lớp ý niệm dồn nén trong chúng thì chức năng phản ánh thực tại của chúng trở nên vô cùng tận.

Các công trình nghệ thuật nói trên luôn tiềm ẩn sự vẫy gọi đối với những kiến giải khác nhau, và dù có dựa bao nhiêu lần vào sự ngông cuồng của ngôn ngữ cũng không thể tường giải hết các ý niệm tiềm ẩn trong chúng. Trên thực tế người nghệ sĩ luôn là kẻ tiên tri thấu thị gánh vác sứ mệnh dẫn đạo trên con đường theo đuổi những giá trị khai minh, và một khi chưa có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với những người tạo ra tác phẩm thì mọi diễn giải chỉ là những nhận định không thoát khỏi sự quy thúc chủ quan. Những tác phẩm này luôn chờ đợi những kiến giải sâu sắc hơn, hoàn bị và nhiệt tâm hơn để cho chúng xứng tầm hơn trong sứ mệnh tôn vinh và nối kết văn hóa Huế với dòng văn hóa đương đại đang cuộn chảy trên thế giới.

Huế, 31 -12 -2010
L.M.P
(265/3-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.