Một ngày xưa yêu cho đến bây giờ

09:55 26/08/2009
HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

Nhà thơ Lê Thị Mây - Ảnh: vnca.cand.com.vn

Tính đến thời điểm hiện nay, có lẽ chị là nhà thơ nữ duy nhất viết trường ca về đề tài chiến tranh cách mạng. Phải chăng vì nhà thơ là người đồng hành, chị đã có một thời thanh xuân gắn bó thương nhớ con đường máu lửa của Trường Sơn hùng vĩ, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ và vinh quang của dân tộc. Phải chăng từ một ký ức xa xưa dội về, một hoài niệm không bao giờ có thể quên được đã thôi thúc trái tim thi sĩ, nó như món nợ tinh thần với đồng đội - Đó là những nữ thanh niên xung phong tuổi đời còn rất trẻ, họ đã lên đường làm nhiệm vụ và hy sinh vì Tổ quốc. Các chị đã hoà vào sông núi quê hương. Cảm hứng chủ đạo về những người phụ nữ Việt Nam bình dị yêu thương nhân hậu mà dũng cảm anh hùng đã được nhà thơ tâm niệm, ấp ủ, đã sáng lên ngọn lửa sáng tạo từ trong thẳm sâu của tâm hồn thi sĩ. Từ những ý tưởng đó Lê Thị Mây đã viết nên trường ca Lửa mùa hong áo với mười bảy chương, 143 trang sách. Trong Lửa mùa hong áo nhà thơ đã có một nội lực thi ca dồi dào và tài hoa. Cảm hứng chủ đạo định hướng cho lý tưởng thẩm mỹ, lý tưởng yêu quê hương đất nước da diết. Như một cuốn phim trôi dòng về quá khứ với các sự kiện bi thương và hào hùng.
Những năm tháng đất nước còn trong chiến tranh chống Mỹ, bao lớp người đã  lên đường đi chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc.

Trường ca Lửa mùa hong áo đã xây dựng hình tượng chân dung những nữ thanh niên xung phong các Binh đoàn Trường Sơn. Những người con gái đã dũng cảm giữ con đường huyết mạch của Tổ Quốc. Các chị đã vượt lên bom đạn, chấp nhận hy sinh mất mát, ở họ luôn sáng một niềm tin về ngày mai  chiến thắng, trong hoà bình của dân tộc. Để họ được yêu, được làm mẹ, làm bà, một hạnh phúc bình dị mà khát khao cháy bỏng của những người phụ nữ.

Bằng thi pháp sử thi, trữ tình, những sự kiện lịch sử bi tráng đã được nhà thơ miêu tả. Từ hình tượng những cô gái thanh niên xung phong với những con người cụ thể đã có sức chinh phục người đọc đó là chị Tám nơi ngã ba Đồng Lộc, chị Tuyển vác đạn, chị Ngà bên sông Son rồi Tổng tư lệnh Nguyễn Thị Định, nhà ngoại giao Nguyễn Thị Bình... Có thể nói những người bà, người mẹ, người chị, những người phụ nữ đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.

Tác giả cũng đưa người đọc đến những miền đất với những địa điểm cụ thể như Bến Lũng Thầy, Khe Mụ Gia, Khe Tang, Khe Ve, Cua Cổng Trời, Nguồn Son, Ngầm La Trọng... những nơi mà bom đạn khốc liệt của Trường Sơn lịch sử năm nào.

Bằng thi pháp ấn tượng với các sự kiện của chiều dài về thời gian lịch sử về cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trong cảm hứng sâu lắng, trong trí tưởng tượng phong phú vừa hiện thực mà lý tưởng. Lửa mùa hong áo  đã đưa đến cho người đọc những cảm nhận ở tầm cao tư tưởng, chiều sâu văn hoá của tâm hồn dân tộc.

Chương dạo đầu như một tâm niệm dội về quá khứ hào hùng ”xin các chị cho em nén giữ trong lòng”  như chìa khoá mở ra ngôi nhà rất đỗi thiêng liêng đó là:
            Tiểu đội mười hai người
            Mười hai quê bịn rịn      
            Ao xẻ tà búi tóc vén hồn sông.


Những nữ thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn tuổi đời còn rất trẻ. Đó là em Xoa, em Quế, em Nụ, em Nết, em Ngò...Có em còn “chưa có eo lưng”. Tuổi mười bảy các em tạm biệt quê hương để nhận nhiệm vụ bảo vệ đường Trường Sơn. Họ đã từng: “ngủ tựa lưng cán xẻng, ngủ tựa lưng ba lô”. Những cô gái thanh niên xung phong ấy luôn coi ”Sinh mệnh con đường hoà máu thịt vào em”  các chị đã vượt qua những cơn sốt rét da xanh vào mặt đá, vượt qua những chiều đói mệt. Dù gian khổ bom đạn, cái chết luôn đe doạ, nhưng cái đẹp của cuộc chiến đấu vẫn được tác giả khắc hoạ:
            Em áo lính cùng anh áo lính
            Hồn sông quê nhuốm lá ngụy trang cành

Có thể nói trong cuộc chiến khốc liệt đó, những cô gái thanh niên xung phong ấy đã vượt qua tất cả bằng sức mạnh tiềm ẩn của trái tim phụ nữ. Như huyền thoại của khúc bi tráng, đã được nhà thơ thể hiện trong những biến cố đau thương của cuộc chiến. Các chị đã lấy thân mình để dập lửa bom napan để cứu các đoàn xe trên đường Trường Sơn chở các chiến sĩ vào mặt trận rồi chở gạo chở thư. Những hình tượng nhân vật đã được thể hiện bằng biểu tượng ngôn ngữ thơ ca, như ánh sáng lấp lánh đã động tới tâm hồn người đọc. Có nhiều khi từ sự đau đớn khốc liệt ấy có thể khiến con người có thể lặng đi rồi khóc oà lên, khóc nấc lên, gục vào lòng mẹ, vào người yêu xa cách giữa nỗi đau khôn cùng.
           
            Ôi lửa Napan lửa hoá học
            Đã ba trăm ngày
            Tóc các em chưa mọc
            Chỉ đầu mười ngón tay chạm vết thương
            Nén lòng vào tấm khăn bịt đầu khóc

Chất nữ tính chan chứa trong Lửa mùa hong áo những câu thơ chân thành đã rung cảm người đọc. Nếu không phải là nữ, thật khó có thể viết được những câu thơ giàu nữ tính, có những cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã khắc hoạ cái đẹp từ trong hiện thực, một hiện thực bi thương, hào hùng. Các chủ đề này đã được thể hiện có sức thuyết phục. Thí dụ các chương Giấc mơ, Chị ơi, Thư.. .Đặc biệt chương Tóc.
             ...Rồi tóc
            Rồi tóc
            Sau trận bom
            Trên cây cụt ngọn như treo bão
            Lai quần trong cỏ nhặt nấc lên
...

Trên tuyến lửa Trường Sơn ấy, cái chết luôn thường trực các chị. Nhưng cả khi chỉ còn nấm mộ thì lũ rừng cũng cuốn trôi. Nhà thơ đã tả chi tiết để khái quát về nỗi đau. Nếu không phải người trong cuộc  sao có thể viết những câu thơ xúc động đến thế:
            Chị ơi cơn lũ tháng ba
            Chân hương trôi dạt đã ba bốn ngày


Từ nỗi đau tâm linh được chuyển tải về nỗi đau cụ thể:
            Bát cơm gác đũa nghẹn từng ngọn rau

Trường ca Lửa mùa hong áo đã đề cập đến những biến động của lịch sử đất nước trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Tính thời đại đã được bộc lộ rõ trong nội dung tác phẩm. Trái tim thi sĩ rung động sâu xa đã đưa người đọc về những bến bờ của cội nguồn tình cảm. Những khát vọng về tình yêu, về hạnh phúc của tuổi trẻ. Nó đẹp, thơ mộng nhưng sao giản dị và thương mến lạ lùng giữa cuộc chiến tranh ác liệt.
            Gió lùa hốc núi vang vọng khúc Trường Sơn
            Chị đã mang theo thời gian
                        tóc xanh vẫn xanh như thuở trước
            Chị đã mang theo cả mối tình
                        cả giấc mơ giấu đằng sau mắt ướt
            Cỏ  bơ phờ nơi hốc đá ngóng trông.

Tác giả của Trường ca Lửa mùa hong áo, không cố ý cao đạo triết lý giảng giải, mà chỉ thông qua những biểu tượng ngôn ngữ, những hình tượng nhân vật giản dị, chân thành. Nhưng đã mang nét đẹp tâm hồn, và hành động. Điều này đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người qua nghệ thuật thơ ca. Nhà thơ đã mở ra những biến động trong dòng tiềm thức của các sự kiện. Trong đau thương mất mát của chiến tranh, con người đau buồn nhưng không bi lụỵ, lớn lao hơn cả vẫn là lý tưởng mà họ đã lựa chọn đó là độc lập, là hoà bình của đất nước. Âm hưởng bi tráng vang vọng khúc trường ca:
            Điệp khúc những con đường sư đoàn nối sư đoàn
            Tóc con gái neo qua bến bờ tình yêu
                                    vắt qua đèo Ngang đèo Mụ Giạ


Từ hiện thực chiến trận về những người nữ thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn tuyến lửa. Nhà thơ đã thực hiện được ý tưởng nâng lên lòng yêu nước bằng chiều sâu văn hoá, bằng truyền thống lịch sử của dân tộc.
               ...Lòng không sờn qua cái chết
            Nào em út
            Dịu dàng ơi
                        chị cả
            Bà ngoại cho quả thị
                        hoá chị Tấm lời than


Từ tiềm thức dội về miền ký ức bi hùng chừng như nhà thơ không cố ý đi chọn hình thức thể loại trường ca Lửa mùa hong áo, mà từ nội dung hiện thực, từ sự dồn nén cảm xúc sáng tạo trực giác chỉ đạo trong ngôn ngữ truờng ca khi tự sự, khi trữ tình, khi hào hùng, khi đối thoại, khi miêu tả hoành tráng, khi khai phá tâm lý, sự kiện. Những biểu tượng của ngôn ngữ, của hình tượng trong trường ca đã có sức tác động đến người đọc từ cảm xúc thẩm mỹ đến ý nghĩa giáo dục mà tác phẩm cần chuyển tải.

Phương thức miêu tả có tính khái quát cao ngay trong bố cục của trương ca với các chương trong tập sách.

Cảm hứng bi tráng của Lửa mùa hong áo cứ vang vọng. Sự liên hệ của âm hương cảm xúc bền chặt rung động người đọc ấy là sự thành công của tác giả. Nhiều khi có những câu, có cảm giác chị viết bằng trái tim mình, có nhiều câu hay:
            ...  Sao chưa tới con đường mà máu em đã đổ
            ... Tiểu đội mười hai người mười hai tháng trăng treo rằm quả thị
             Chị ơi hãy về mùa hong áo lửa uy nghi

Tôi cứ nghĩ rằng cũng khó có câu thơ hay hơn khi viết về tình yêu thời Trường Sơn như:
            Một ngày xưa yêu cho đến bây giờ
             ... Phía Trường Sơn chân nối chân bước gấp
             ... Sông quê ơi xanh quá đỗi dịu dàng
            Tưởng có thể búi lên mượt mà xanh hồn tóc.

Tuy trong trường ca Lửa mùa hong áo vẫn có đôi câu thơ rơi vào ”dài dòng”, nếu như tác giả có thể chắt lọc kỹ hơn... Nhưng điều này cũng không ảnh hưởng đến độ chuyển tải của trường ca Lửa mùa hong áo - một tập sách quý, có giá trị không chỉ cho người cùng thời mà còn cho thế hệ trẻ. Về vọng khúc Trường Sơn một thời mà nhà thơ Lê Thị Mây đã từng tâm niệm Một ngày xưa yêu dấu cho đến bây giờ.

Hà Nội 5/4/2004
H.K.D
(185/07-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)