Một ngày xưa yêu cho đến bây giờ

09:55 26/08/2009
HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

Nhà thơ Lê Thị Mây - Ảnh: vnca.cand.com.vn

Tính đến thời điểm hiện nay, có lẽ chị là nhà thơ nữ duy nhất viết trường ca về đề tài chiến tranh cách mạng. Phải chăng vì nhà thơ là người đồng hành, chị đã có một thời thanh xuân gắn bó thương nhớ con đường máu lửa của Trường Sơn hùng vĩ, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ và vinh quang của dân tộc. Phải chăng từ một ký ức xa xưa dội về, một hoài niệm không bao giờ có thể quên được đã thôi thúc trái tim thi sĩ, nó như món nợ tinh thần với đồng đội - Đó là những nữ thanh niên xung phong tuổi đời còn rất trẻ, họ đã lên đường làm nhiệm vụ và hy sinh vì Tổ quốc. Các chị đã hoà vào sông núi quê hương. Cảm hứng chủ đạo về những người phụ nữ Việt Nam bình dị yêu thương nhân hậu mà dũng cảm anh hùng đã được nhà thơ tâm niệm, ấp ủ, đã sáng lên ngọn lửa sáng tạo từ trong thẳm sâu của tâm hồn thi sĩ. Từ những ý tưởng đó Lê Thị Mây đã viết nên trường ca Lửa mùa hong áo với mười bảy chương, 143 trang sách. Trong Lửa mùa hong áo nhà thơ đã có một nội lực thi ca dồi dào và tài hoa. Cảm hứng chủ đạo định hướng cho lý tưởng thẩm mỹ, lý tưởng yêu quê hương đất nước da diết. Như một cuốn phim trôi dòng về quá khứ với các sự kiện bi thương và hào hùng.
Những năm tháng đất nước còn trong chiến tranh chống Mỹ, bao lớp người đã  lên đường đi chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc.

Trường ca Lửa mùa hong áo đã xây dựng hình tượng chân dung những nữ thanh niên xung phong các Binh đoàn Trường Sơn. Những người con gái đã dũng cảm giữ con đường huyết mạch của Tổ Quốc. Các chị đã vượt lên bom đạn, chấp nhận hy sinh mất mát, ở họ luôn sáng một niềm tin về ngày mai  chiến thắng, trong hoà bình của dân tộc. Để họ được yêu, được làm mẹ, làm bà, một hạnh phúc bình dị mà khát khao cháy bỏng của những người phụ nữ.

Bằng thi pháp sử thi, trữ tình, những sự kiện lịch sử bi tráng đã được nhà thơ miêu tả. Từ hình tượng những cô gái thanh niên xung phong với những con người cụ thể đã có sức chinh phục người đọc đó là chị Tám nơi ngã ba Đồng Lộc, chị Tuyển vác đạn, chị Ngà bên sông Son rồi Tổng tư lệnh Nguyễn Thị Định, nhà ngoại giao Nguyễn Thị Bình... Có thể nói những người bà, người mẹ, người chị, những người phụ nữ đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.

Tác giả cũng đưa người đọc đến những miền đất với những địa điểm cụ thể như Bến Lũng Thầy, Khe Mụ Gia, Khe Tang, Khe Ve, Cua Cổng Trời, Nguồn Son, Ngầm La Trọng... những nơi mà bom đạn khốc liệt của Trường Sơn lịch sử năm nào.

Bằng thi pháp ấn tượng với các sự kiện của chiều dài về thời gian lịch sử về cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trong cảm hứng sâu lắng, trong trí tưởng tượng phong phú vừa hiện thực mà lý tưởng. Lửa mùa hong áo  đã đưa đến cho người đọc những cảm nhận ở tầm cao tư tưởng, chiều sâu văn hoá của tâm hồn dân tộc.

Chương dạo đầu như một tâm niệm dội về quá khứ hào hùng ”xin các chị cho em nén giữ trong lòng”  như chìa khoá mở ra ngôi nhà rất đỗi thiêng liêng đó là:
            Tiểu đội mười hai người
            Mười hai quê bịn rịn      
            Ao xẻ tà búi tóc vén hồn sông.


Những nữ thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn tuổi đời còn rất trẻ. Đó là em Xoa, em Quế, em Nụ, em Nết, em Ngò...Có em còn “chưa có eo lưng”. Tuổi mười bảy các em tạm biệt quê hương để nhận nhiệm vụ bảo vệ đường Trường Sơn. Họ đã từng: “ngủ tựa lưng cán xẻng, ngủ tựa lưng ba lô”. Những cô gái thanh niên xung phong ấy luôn coi ”Sinh mệnh con đường hoà máu thịt vào em”  các chị đã vượt qua những cơn sốt rét da xanh vào mặt đá, vượt qua những chiều đói mệt. Dù gian khổ bom đạn, cái chết luôn đe doạ, nhưng cái đẹp của cuộc chiến đấu vẫn được tác giả khắc hoạ:
            Em áo lính cùng anh áo lính
            Hồn sông quê nhuốm lá ngụy trang cành

Có thể nói trong cuộc chiến khốc liệt đó, những cô gái thanh niên xung phong ấy đã vượt qua tất cả bằng sức mạnh tiềm ẩn của trái tim phụ nữ. Như huyền thoại của khúc bi tráng, đã được nhà thơ thể hiện trong những biến cố đau thương của cuộc chiến. Các chị đã lấy thân mình để dập lửa bom napan để cứu các đoàn xe trên đường Trường Sơn chở các chiến sĩ vào mặt trận rồi chở gạo chở thư. Những hình tượng nhân vật đã được thể hiện bằng biểu tượng ngôn ngữ thơ ca, như ánh sáng lấp lánh đã động tới tâm hồn người đọc. Có nhiều khi từ sự đau đớn khốc liệt ấy có thể khiến con người có thể lặng đi rồi khóc oà lên, khóc nấc lên, gục vào lòng mẹ, vào người yêu xa cách giữa nỗi đau khôn cùng.
           
            Ôi lửa Napan lửa hoá học
            Đã ba trăm ngày
            Tóc các em chưa mọc
            Chỉ đầu mười ngón tay chạm vết thương
            Nén lòng vào tấm khăn bịt đầu khóc

Chất nữ tính chan chứa trong Lửa mùa hong áo những câu thơ chân thành đã rung cảm người đọc. Nếu không phải là nữ, thật khó có thể viết được những câu thơ giàu nữ tính, có những cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã khắc hoạ cái đẹp từ trong hiện thực, một hiện thực bi thương, hào hùng. Các chủ đề này đã được thể hiện có sức thuyết phục. Thí dụ các chương Giấc mơ, Chị ơi, Thư.. .Đặc biệt chương Tóc.
             ...Rồi tóc
            Rồi tóc
            Sau trận bom
            Trên cây cụt ngọn như treo bão
            Lai quần trong cỏ nhặt nấc lên
...

Trên tuyến lửa Trường Sơn ấy, cái chết luôn thường trực các chị. Nhưng cả khi chỉ còn nấm mộ thì lũ rừng cũng cuốn trôi. Nhà thơ đã tả chi tiết để khái quát về nỗi đau. Nếu không phải người trong cuộc  sao có thể viết những câu thơ xúc động đến thế:
            Chị ơi cơn lũ tháng ba
            Chân hương trôi dạt đã ba bốn ngày


Từ nỗi đau tâm linh được chuyển tải về nỗi đau cụ thể:
            Bát cơm gác đũa nghẹn từng ngọn rau

Trường ca Lửa mùa hong áo đã đề cập đến những biến động của lịch sử đất nước trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Tính thời đại đã được bộc lộ rõ trong nội dung tác phẩm. Trái tim thi sĩ rung động sâu xa đã đưa người đọc về những bến bờ của cội nguồn tình cảm. Những khát vọng về tình yêu, về hạnh phúc của tuổi trẻ. Nó đẹp, thơ mộng nhưng sao giản dị và thương mến lạ lùng giữa cuộc chiến tranh ác liệt.
            Gió lùa hốc núi vang vọng khúc Trường Sơn
            Chị đã mang theo thời gian
                        tóc xanh vẫn xanh như thuở trước
            Chị đã mang theo cả mối tình
                        cả giấc mơ giấu đằng sau mắt ướt
            Cỏ  bơ phờ nơi hốc đá ngóng trông.

Tác giả của Trường ca Lửa mùa hong áo, không cố ý cao đạo triết lý giảng giải, mà chỉ thông qua những biểu tượng ngôn ngữ, những hình tượng nhân vật giản dị, chân thành. Nhưng đã mang nét đẹp tâm hồn, và hành động. Điều này đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người qua nghệ thuật thơ ca. Nhà thơ đã mở ra những biến động trong dòng tiềm thức của các sự kiện. Trong đau thương mất mát của chiến tranh, con người đau buồn nhưng không bi lụỵ, lớn lao hơn cả vẫn là lý tưởng mà họ đã lựa chọn đó là độc lập, là hoà bình của đất nước. Âm hưởng bi tráng vang vọng khúc trường ca:
            Điệp khúc những con đường sư đoàn nối sư đoàn
            Tóc con gái neo qua bến bờ tình yêu
                                    vắt qua đèo Ngang đèo Mụ Giạ


Từ hiện thực chiến trận về những người nữ thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn tuyến lửa. Nhà thơ đã thực hiện được ý tưởng nâng lên lòng yêu nước bằng chiều sâu văn hoá, bằng truyền thống lịch sử của dân tộc.
               ...Lòng không sờn qua cái chết
            Nào em út
            Dịu dàng ơi
                        chị cả
            Bà ngoại cho quả thị
                        hoá chị Tấm lời than


Từ tiềm thức dội về miền ký ức bi hùng chừng như nhà thơ không cố ý đi chọn hình thức thể loại trường ca Lửa mùa hong áo, mà từ nội dung hiện thực, từ sự dồn nén cảm xúc sáng tạo trực giác chỉ đạo trong ngôn ngữ truờng ca khi tự sự, khi trữ tình, khi hào hùng, khi đối thoại, khi miêu tả hoành tráng, khi khai phá tâm lý, sự kiện. Những biểu tượng của ngôn ngữ, của hình tượng trong trường ca đã có sức tác động đến người đọc từ cảm xúc thẩm mỹ đến ý nghĩa giáo dục mà tác phẩm cần chuyển tải.

Phương thức miêu tả có tính khái quát cao ngay trong bố cục của trương ca với các chương trong tập sách.

Cảm hứng bi tráng của Lửa mùa hong áo cứ vang vọng. Sự liên hệ của âm hương cảm xúc bền chặt rung động người đọc ấy là sự thành công của tác giả. Nhiều khi có những câu, có cảm giác chị viết bằng trái tim mình, có nhiều câu hay:
            ...  Sao chưa tới con đường mà máu em đã đổ
            ... Tiểu đội mười hai người mười hai tháng trăng treo rằm quả thị
             Chị ơi hãy về mùa hong áo lửa uy nghi

Tôi cứ nghĩ rằng cũng khó có câu thơ hay hơn khi viết về tình yêu thời Trường Sơn như:
            Một ngày xưa yêu cho đến bây giờ
             ... Phía Trường Sơn chân nối chân bước gấp
             ... Sông quê ơi xanh quá đỗi dịu dàng
            Tưởng có thể búi lên mượt mà xanh hồn tóc.

Tuy trong trường ca Lửa mùa hong áo vẫn có đôi câu thơ rơi vào ”dài dòng”, nếu như tác giả có thể chắt lọc kỹ hơn... Nhưng điều này cũng không ảnh hưởng đến độ chuyển tải của trường ca Lửa mùa hong áo - một tập sách quý, có giá trị không chỉ cho người cùng thời mà còn cho thế hệ trẻ. Về vọng khúc Trường Sơn một thời mà nhà thơ Lê Thị Mây đã từng tâm niệm Một ngày xưa yêu dấu cho đến bây giờ.

Hà Nội 5/4/2004
H.K.D
(185/07-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).