Một ngày trên quê hương Trạng Trình

11:01 29/04/2009
NGUYỄN NHÃ TIÊN                         Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".

Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Dường như lịch sử dân tộc, chưa từng có cuộc đời một danh nhân văn hoá nào đầy ắp truyền thuyết và giai thoại vây quanh như Trạng Trình-Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đầy ắp đến độ, trang đời Trình Quốc Công kín giấy mực ghi chép, lòng ngưỡng mộ của nhân dân lại thăng hoa thêm nhiều sáng tạo nên những giai thoại đẹp đẽ về song thân của ông. Như thế hãy còn chưa đủ, lại tràn sang vợ con, bạn bè và cả bà con làng xóm. Người đã đẹp lung linh trong sự truyền tụng của lòng ngưỡng vọng. Còn đất, đất cũng lộng lẫy không kém gì. Mỗi cái dòng Tuyết Giang, một nhánh sông con chảy qua làng ông, có khác gì sông Luộc, sông Thái Bình. Còn nhỏ hơn thế nữa là khác. Vậy mà, dòng sông ấy đã từng là bầu bạn, từng tắm gội tuổi thơ Trạng Trình; thế nên mặc nhiên, dòng sông ấy cũng trở thành một dòng "thánh thủy" góp phần nuôi dưỡng cậu bé thần đồng Nguyễn Tất Đạt (tên gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc còn nhỏ). Mỗi cái gốc đa đầu làng cũng thành một địa chỉ tình yêu của Trạng. Mỗi chiếc cầu đá nhỏ bắc qua một con mương, nơi Trạng Trình thường đi qua Thiên Hương Tự vãn cảnh chùa, đàm đạo thơ văn với các nhà sư, cũng được lấp lánh trên mình một tên gọi "Tràng Xuân Kiều" đầy hấp lực mê hoặc trí tưởng thưởng ngoạn của con người. Người đẹp như thế, đất đẹp như thế, thảo nào chẳng sánh danh như ngọc trong thơ văn Trạng Trình, khi nói về xứ sở của mình: "Hào hoa hấp nhĩ tư lân hội. Nhân hậu y nhiên mỹ lục tồn" (Hào hoa tụ hội thôn xóm cận kề. Người nhân hậu với thuần phong mỹ tục).

Vậy mà đôi bàn chân bê tha của kẻ hậu sinh như tôi, đã có lần lội khắp đường ngang ngõ dọc trên cái làng quê văn vật ấy. Cái cảm giác bổi hổi của bước chân lạc giữa bao nhiêu là chuyện kể, giai thoại, truyền thuyết, khiến tôi ham hố bước đi mê say một cách nghễnh ngãng như chính mình rồi cũng...huyền thoại nốt. Chỉ mỗi cái làng quê huyện Vĩnh Bảo, mà có đủ trạng nguyên, bảng nhãn, hoàng giáp, phó bảng, lại còn đến cả 11 vị đồng tiến sĩ. Và ngày nay, cái thời mà Trạng "tiên tri" là "ức vạn xuân" ấy, làng quê này có đến 40 vị cũng đều là tiến sĩ cả. Đất như thế mà không gọi là "địa linh nhân kiệt" thì gọi là gì. Bỗng dưng tôi khao khát, giá như được đến Vĩnh Bảo sớm hoặc là muộn hơn, nghĩa là cho kịp một dịp lễ hội nào đó, để được tắm táp lên mình ánh sáng của những ngọn đèn trời trong hội lễ phóng đăng. Hay là được mở to mắt kinh ngạc nhìn những con rối nước phi ngựa diễn trò tưng bừng trên cái sân khấu thuỷ đình, hay là sới vật, hát đúm, đánh đu, hay là hay là... Nhưng mà thôi, hình như tôi có vẻ tham lam. Mà điều đó là trái với ý Trạng: "Thiều tư, quả dục, vật lao thân" (Bớt ham muốn cho xác thân khỏi nhọc nhằn). Vậy thì, hãy reo vui với những cái đẹp từ đất và người mà mình đang được nhìn thấy, đang được chạm tay vào những sự vật, mà mới hôm qua đây còn là trong giấc mơ, còn là trong tâm tưởng.

Tôi đứng nhìn đền thờ Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm, một ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Lịch sử một ngôi đền thờ cũng thăng trầm cung bậc như đời một con người, có khác gì đâu. Lần đầu, đền được xây dựng vào năm Trạng mất (1585). Vua nhà Mạc đã cấp cho làng Trung Am 3000 quan tiền và hàng trăm mẫu ruộng để tạo dựng đền thờ. Đích thân vua đề chữ "Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ" lên trên biển gắn trước đền. Nhưng rồi "nương dâu bãi bê" bị đổ nát, cho đến thời Lê Trung hưng (1735) dân làng mới dựng lại. Cũng chẳng hề được yên, thời Minh Mạng thập tứ niên (1833) đền Trạng bị phá. Chuyện phá đền lần này có giai thoại liên quan đến Nguyễn Công Trứ, thời gian này, Uy Viễn đang là Tổng đốc Hải Dương. Nhân việc Nguyễn Khoái, người Vĩnh Lại (tên gọi xưa của Vĩnh Bảo), làm giặc chống lại triều đình, Nguyễn Công Trứ cho rằng ứng với sấm ký Trạng Trình để lại: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi vương". Thế là vua lệnh cho Trứ phá đền, khi đền phá ra, Trứ phát hiện có tấm bia ghi sẵn: "Minh Mạng thập tứ, thằng Trứ phá đền", mặt sau bia lại ghi: "Phá đền ta thì không được dự vào hàng nho sĩ". Đọc xong, Trứ lạnh toát cả người, bèn tâu vua xin cho được xây đền lại như cũ. Ngôi đền mà tôi bước vào thắp hương trước người xưa, là ngôi đền được xây dựng lại từ thời Bảo Đại (1927). Đền được xây dựng trên chính cái nền của Bạch Vân am ngày xưa. Tại nơi này đây, Trạng Trình từ quan lui về mở trường dạy học, và đã có bao nhiêu trạng nguyên, những bậc hiền tài học trò của ông đã ra giúp đời, giúp nước. Cũng chính nơi này, bao nhiêu vua quan Mạc, Trịnh, Nguyễn đã lui tới nhờ Trình Quốc công kiến giải, vẽ đường đi nước bước cho từng triều đại. Và Nguyễn Bỉnh Khiêm, với lòng yêu nước thương dân, với cái trí của người "Thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự" (thấu hiểu thiên văn trên trời, am tường địa lý dưới đất, giữa rõ lòng người), đã hướng dẫn cho các thế lực phong kiến những con đường khác nhau, tránh cho dân tộc bớt cái họa binh lửa nồi da xáo thịt.

Ngày nay, những dự án tôn tạo khu di tích lịch sử văn hoá và đền thờ Trạng Trình-Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được xây dựng hoàn thành. Đường vào khu di tích đã được tráng nhựa. Bước vào khuôn viên, từ hồ Thái Nhâm đến mọi lối vườn hoa cây cảnh, tất cả được lát gạch Bát Tràng trông đến mát mắt. Trước đền, trên đường vào về phía tay phải là một quảng trường rộng lớn để tổ chức lễ hội. Giữa quảng trường là pho tượng lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm uy nghi giữa đất trời lồng lộng. Bên phải quảng trường là ngôi chùa cổ Song Mai, nơi có thờ bà Minh Nguyệt, vợ thứ của Trạng Trình - người lộng lẫy trong giai thoại người đẹp Đồ Sơn nức tiếng, đã làm say đắm trái tim thi sĩ của ông. Và chắc rằng, nhan sắc ấy đã ảnh hưởng ít nhiều đến văn bút một đời tài hoa bậc thầy như ông.

Nhưng tôi lại muốn đi tìm một chút khí vị cổ xưa, dù chỉ là hơi hướm trong nhà lưu niệm. Những cầu Nghinh Phong, Tràng Xuân Kiều, hoặc là Quán Trung Tân bên dòng Tuyết Giang gió lùa âm vang cổ sử. Tại bến sông này, Trạng Trình đã cho dựng một cái quán lơ thơ phên lá cho khách đường xa lỡ đường nghỉ chân. Một cái quán sơ sài đến thế mà bia đá khắc bài văn bia truyền bá cái tư tưởng Trung Tân của người xưa cứ mãi trường tồn: "...Tôi viết biển đề tên Quán Trung Tân. Có người hỏi tôi: Quán tên là Trung Tân có ý nghĩa như thế nào? Tôi trả lời rằng: Trung là đạo trung, giữ được toàn thiện là trung, trái lại thì không phải là trung. Còn Tân là bến để đậu, biết chỗ bến đậu đúng thì là bến chính, nếu đậu sai chỗ là bến mê... Xin ghi vào đá để lưu lại lâu dài. Tháng Mạnh xuân, niên hiệu Quảng Hoà thứ ba (1543) Tiến sĩ cập đệ khoa Ất Mùi (1535) Lại bộ Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ Tư chính Khanh Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn" (Bản dịch Ngô Đăng Lợi).

Một hiện hữu tâm huyết chữ nghĩa người xưa, ngót hơn nửa thiên niên kỷ rồi còn mãi nơi đây. Sông cạn đá mòn, ơi sông cạn đá mòn! Hưng vong và dâu bể. Nhưng những điều trông thấy, đã minh chứng với ta về một lẽ vĩnh hằng của cái ý nghĩa thời gian bao la - cái gì tồn tại và cái gì không tồn tại. Tôi ngước nhìn tượng Trạng Trình ánh lên màu đá granic dưới màu nắng ban mai tươi rói. Ông đang ngồi mắt dõi xa xăm, hai tay cầm bút và sách như đang viết tiếp những trang thơ, nối vào cái gia tài văn hoá đồ sộ: Bạch Vân thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi, Trình Quốc thi tập...


Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bằng thiên tài và sự chiêm nghiệm, ông đã giãi bày quan niệm triết lý của mình-không yếm thế hoặc tiêu cực theo khuynh hướng "giải thoát", mà nghiêng về chiều hướng thiên nhiên và sự vận động không ngừng của qui luật tất yếu sự vật khách quan, nhằm hướng cái tâm con người tới một ý nghĩa của sự hoàn thiện.

Thời gian không đủ cho tôi chiêm bái hết mọi con đường làng quê Trung Am, nơi Trình Quốc công đã từng đi qua. Những con đường, là nói theo sự tâm tưởng để cố mà hình dung cái lẽ "xuất, xử" hơn người của một nhà nho, hơn thế nữa là một triết gia, một nhà thơ, một danh nhân văn hoá, mà bóng râm của ông nào chỉ trong một làng quê nầy. Con đường hoạn lộ của ông ngắn ngủi 8 năm (sau khi dâng sớ lên vua Mạc xin chém đầu 18 tên gian thần không thành), quả ít ỏi so với gần một thế kỷ ông đã sống (1491-1585). Thế nhưng cái uy đức và sự lỗi lạc của ông đã ảnh hưởng đến nhiều triều đại. Sau khi cáo quan về quê, không có nghĩa là ông qui ẩn lánh đời, mà chính là thời gian Trạng Trình mở trường dạy học, viết sách mới, với lòng khát khao đào tạo hiền tài cho đất nước.

Đi giữa cái làng quê văn vật, nào chùa Mét (Cổ Am), nào Tháp Bút Kinh Thiên nổi lên giữa cánh đồng, nào Quán Trung Tân bên dòng Tuyết Giang, và rồi những làng nghề sơn mài, điêu khắc, tạc tượng ở những làng bên. Đứng nhìn những "bàn tay khắc gỗ nên vàng" của các nghệ nhân làng Bảo Hà, tôi thực lòng đến mê muội nhìn không biết chán là gì. Dường như mỗi pho tượng đều ẩn giấu bên trong một linh hồn, một sức sống đầy cám dỗ. Bước vào miếu Bảo Hà, người thủ tự kéo chiếc màn bàn thờ Tổ. Dưới ánh đèn thờ hư ảo, pho tượng Linh-Lang-Đại-Vương đang ngồi bỗng từ từ đứng dậy, phút chốc, gây cho ta được cái cảm giác người xưa đang trở về. Không ghi chép hết vào trí nhớ một xã Lý Học, nói gì một huyện Vĩnh Bảo mênh mông, càng mênh mông đến vô tận là thời gian ngàn năm ngun ngút...

Nhưng dù sao tôi cũng đã tắm táp lên mình được ít huyền thoại từ mưa móc lịch sử của một vùng đất. Và nếu như "sấm ký" của Trạng Trình, mà bút tích của ông còn lưu lại trên chiếc lư hương ở quê ngoại là thật, thì bước chân tôi là kẻ thứ bao nhiêu trong những đoàn người hành hương về xứ sở của ông thuộc 500 năm về sau: "Chú ngũ phục nguyên tiền. Hữu xương hồ nhân thập..." (Khoảng 500 năm sau thì trở lại như trước. Niềm vui từ người thập phương về).

Từ giã quê hương Trạng Trình, hẹn với lòng mình sẽ có một ngày trở lại. Xe chạy qua dòng Tuyết Giang rồi mà mắt tôi cứ đau đáu nhìn về cái bờ bến mù sương phía bên kia. Quáng Trung Tân ở đâu trong mấy lớp sa mù, mà tiếng thơ người xưa như trong gió thoảng bay về chúc tụng mùa xuân:
"...Thư nhàn khước tá đông phong lực
Lưu thử xuân quang nhập thọ bôi"
           
(Trung Tân ngụ hứng- Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Dù mịt mù cổ tự, nhưng không hiểu vì sao trong cơn say khướt với từng cơn gió tràng giang, hay tại vì tiếng mời chào ngọt lịm của cô hàng nước ven sông, khiến tôi liều lĩnh ngẫu hứng ngâm nga. Nếu có quấy quá âu cũng là lòng ngưỡng mộ, xin tiền nhân Quán Trung Tân độ lượng bao dung: "Du ngàn ngậm sắc gió đông. Ngày xuân say một tiếng lòng đầy vơi!"

N.N.T
(171/05-03)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGÔ MINH Kỷ niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2011)

  • NGUYỄN QUANG HÀ Kỷ niệm 20 năm thành lập đặc khu Côn Đảo (8.1991 - 8.2011) Thế hệ chúng tôi, thời tuổi trẻ, ai mà chẳng thuộc bài hát ca ngợi chị Võ Thị Sáu: “Mùa hoa Lêkima nở, ở quê ta miền Đất Đỏ, thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng đã chết cho đời sau...”.

  • NGÔ VĂN MINH Bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là công việc quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Triều Nguyễn sau khi đã mở mang, hợp nhất địa giới hành chính trong toàn lãnh thổ đã có những quy định về việc bảo vệ chủ quyền, tránh các thế lực bên ngoài dòm ngó, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ chủ quyền đường biên giới và đường biển.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG Ghi chép Đến hẹn lại lên cứ đến ngày 27/3 (âm lịch) hàng năm, mảnh đất Mèo Vạc - nơi “phên dậu” của Tổ quốc lại rạo rực không khí đón Lễ hội chợ tình Khâu Vai - phiên chợ tình nổi tiếng có một không hai ở nước ta, thậm chí còn độc đáo và hiếm có trên thế giới, mà từ lâu đã trở thành huyền thoại.

  • NGUYỄN MINH CHÂU Trong đời viết văn của tôi, các tác phẩm chính về truyện ngắn và tiểu thuyết đều viết về vùng đất Bình Trị Thiên.

  • NGUYỄN HOÀNG YẾNChiếc xe khách chạy chậm dần. Âm giọng đặt sệt miền Nam của gã phụ xe chợt vang lên “Đến ngã ba MaDaGui rồi… có ai xuống không” Kiểu nói oang oang của gã kèm với tiếng thắng xe rít nhè nhẹ đánh thức tôi ra khỏi vùng ký ức mơ hồ vừa nồng nàn ấm áp vừa gian khổ chua cay.

  • XUÂN ĐỨCLàng tôi cách thị trấn Hồ Xá không xa, người lớn đi bộ gần một giờ, còn trẻ con thì đủ sức níu lấy gióng mẹ mà chạy lon ton từ nhà lên chợ huyện.

  • KÊ SỬUGiá trị văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học, thẩm mỹ được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề trình diễn và các hình thức lưu giữ khác.

  • NGÔ THIÊN THUPhước Yên một thời là thủ phủ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của Nguyễn Hoàng. Sau khi lên ngôi chúa ông cải tổ lại mọi công việc và được dân gọi là chúa Sãi. Sau khi Nguyễn Hoàng mất vào năm 1613, theo lời di huấn, ông ra sức củng cố sức mạnh cho mình bằng cách hoàn thiện bộ máy hành chính và quân sự... Năm 1626 ông dời phủ từ Dinh Cát vào đất Phước Yên để lập phủ mới. Mục đích chính cho việc chuyển phủ vào đây là để chuẩn bị thực lực chống quân Trịnh lâu dài.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾDo xê dịch ngẫu nhiên của số phận, tuổi thơ tôi lớn lên ở mường Cự Thắng, châu Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

  • VI THÙY LINHÔ tô xanh chạy triền đê thở cùng những đợt hôn ngạt thở. Không phải Hollywood mà hơn cả Hollywood, khi mỗi nhịp vô - lăng là một scène cuồng say nơi miền không chạm đất nơi miền không lên trời. Sông Thao đang chảy trong tình yêu của tôi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Dọc một thời trai trẻ của những năm chín mươi, khi ấy đất nước bắt đầu đổi mới, tôi đi gần như khắp các làng quê xứ Huế từ biển khơi, đầm phá đến thẳm sâu rừng núi đại ngàn.

  • KÊ SỬU1. Đặc điểm đời sống của dân tộc Ta ôi

  • HIỀN QUANGCâu chuyện của tôi về vùng núi ven đường số 9, ngay trên thung lũng Khe Sanh lịch sử này chỉ xoay quanh con cá và cây cà phê trong hướng đi lên của hợp tác xã Tân Độ.

  • NGUYỄN VĂN VINHCuối năm 1953, Pháp thực hiện kế hoạch Na-Va, chúng tổ chức nhiều cuộc càn quét có quy mô đánh sâu vào vùng hậu cứ nước ta. Quân dân ta đánh trả quyết liệt. Pháp thua to, dẫn đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, vị trí chiến lược quan trọng vào bậc nhất của giặc Pháp bị tiêu diệt.

  • HÀ LẬP NHÂNLần đầu tiên người Việt phát hiện ra những điều sâu kín nhất trong chính tâm hồn mình. Đó là tích truyện An Dương Vương quay lại chém chết con gái Mỵ Châu yêu quí của Người sau khi kinh đô Cổ Loa thất thủ. Vì vậy cho dù bản thân An Dương Vương không phải là một nhà tư tưởng, nhưng tích truyện về ông thì lại có một tầm tư tưởng thật sâu sắc.

  • NGUYỄN HỮU SƠN1. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, danh nhân thiền sư Từ Đạo Hạnh (?- 1117) là một trong những hiện tượng văn hóa chứa đựng nhiều điều nghịch lý:

  • PHONG LÊTrên các chuyến tàu xuyên Việt, từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh tôi thường xiết bao bồi hồi khi qua mảnh đất miền Trung quê tôi - xứ nghèo Nghệ Tĩnh, khô khát nắng hạn và gió Lào.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGọi là “một ngày”, nhưng có nhiều cách tính. Thông thường, đó là quãng thời gian từ sáng đến tối; với các công chức thì chỉ gọn trong “8 giờ vàng ngọc”.

  • TRẦN HOÀI... Chiều nay ra đứng trông về, bên ven bờ Hiền Lương mây lặng lờ trôi... Phải, đến bây giờ, sau hơn 40 năm kể từ ngày nhạc sỹ Hoàng Hiệp ôm cây đàn mãng- đô- lin hát bài hát đầu tay của mình mới sáng tác "Câu hò bên bến Hiền Lương" nổi tiếng, mây vẫn lặng lờ trôi.