Một giọng văn riêng trong bút ký

09:07 30/12/2009
HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

Xin phép được tâm sự đôi điều trước khi nhập đề: trên giá sách của tôi, có nhiều cuốn của bạn bè quen biết và đồng nghiệp khắp nơi trong nước gửi đến trao đổi, biếu tặng. Hàng tháng hàng năm, các chồng sách ấy cứ đầy mãi lên. Chỉ tính riêng năm ngoái 2008, độ dày của các gáy sách tôi đo được đã gần một gang tay, trong đó không ít là sách của các bạn bè đủ các lứa tuổi ở Huế.

Tôi thường có thói quen - do thì giờ có hạn là chủ yếu - năm sau đọc sách của bạn bè xuất bản năm trước. Tôi rút một cuốn hú họa trong số này mà không kịp liếc nhìn chữ trên gáy sách, thì gặp “Chuyện Huế” bút ký của Hồ Đăng Thanh Ngọc! À, một nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế vừa mới nhậm chức Phó Tổng biên tập Phụ trách Tạp chí Sông Hương, nơi tôi đã từng ngồi đó khá nhiều năm, gần ba nhiệm kỳ.

Hồ Đăng Thanh Ngọc vốn là nhà báo ở tòa soạn báo Thừa Thiên Huế, một cộng tác viên văn hoá của Tạp chí Sông Hương nhiều năm nay; tôi biết anh từ những năm 90 với bút danh Hạ Nguyên. Trong quá trình đó, tôi có đọc không ít bút ký, ký sự, phóng sự... của anh đăng trên các báo địa phương, trung ương. Ấn tượng đầu tiên là cây bút này xông xáo nhiều nơi, hay quan tâm đến những vấn đề về văn hóa sử.

Dở trang đầu tiên của “Chuyện Huế” tôi bắt gặp ngay mục lục in ở trang ba mặt sau của bìa trong: “Gió trên đỉnh Bạch Mã, Mùa lễ hội trong mưa, Vũ điệu của huyền thoại, Thành phố của nghệ thuật sống; rồi… Bản di chúc của đất trời, Người đọc sử nơi đáy sông, Giai nhân xứ Huế”...

Phải nói ngay rằng, Hồ Đăng Thanh Ngọc đã chọn lựa khá chặt chẽ: mười bảy bài, một trăm bảy mươi trang trong hàng trăm bài anh đã viết hơn mười năm qua. Tôi đọc từ đầu đến cuối mặc dù có bài tôi đã đọc trước đó trên các báo hàng ngày, hàng tuần. Thấy rằng tác giả đã không nề vất vả, công phu sửa chữa, nâng lên khá kỹ, khá tâm huyết. Vì vậy mà chất lượng tác phẩm đã được cải thiện rõ rệt, không như những gì tôi đọc anh lần đầu. “Những ngọn nến” là một ví dụ. Bài bút ký viết nhân ngày kỷ niệm 10 năm thành lập Đội công tác xã hội Thanh niên Huế. Một đề tài khô khan và hơi… nhàm chán, phải không? Vậy mà ta hãy đọc: “… Nắng xuyên qua mắt lá đến chỗ tôi ngồi lấp lóa như đang có muôn ngàn ngọn nến vừa được thắp lên; và tôi chợt thấy mình đang bị một dòng ký ức xa xưa tưởng đã ngủ yên lâu rồi đánh thức dậy… Nếu đã là nến thì phải cháy hết mình, không kể đó là ngọn nến thắp ban đêm hay ban ngày… Vấn đề là chúng ta đã được thắp sáng cho nhau hay không”...

Thể loại ký trong văn học không thể nào thiếu sự việc, sự kiện. Đã đành là như vậy nhưng nếu sự việc cứ chồng lên sự việc mà không có hoặc không thấy bóng dáng con người cùng những nghĩ suy, cảm xúc, nỗi niềm… của họ thì chẳng khác gì thực vật, mọi chuyện sẽ trơ khấc ra, chẳng đem lại cho ai điều gì cả! “Bào Đột hương trang” chứng minh thêm cho ta điểm này. Những sự kiện dập dồn, lớp lớp, trùng điệp... gần như suốt cả nghìn năm văn hiến xảy ra ở nơi thánh địa của dòng họ Hồ, từ ông nguyên tổ là Hồ Hưng Dật cho đến Hồ Quý Ly... và sau này nữa là Hồ Phi Phúc (tức Nguyễn Phi Phúc thân phụ Nguyễn Huệ), Hồ Tông Thốc, Hồ Xuân Hương v.v... kéo mãi đến thời hiện đại giờ đây là Hồ Tùng Mậu cùng con cháu của ông được dồn nén trong bút ký, cảm xúc ngập đầy tư đầu cho đến đoạn cuối.

... “Sách xưa nói rằng cứ 300 năm bình địa trả qua một lần dâu bể… Bào Đột cũng không thoát khỏi quy luật ấy, diễn biến can qua của những cuộc bể dâu đã xóa tan bao cung điện, đền đài... Có chăng còn lại bây giờ là hương trang vẫn một màu xanh bình yên thăm thẳm cho con cháu tìm về. Có những người chí cao ngút trời song không bao giờ về được lại hương trang Bào Đột. Một trong số đó là “Anh hùng di hận kỷ thiên nien” Hồ Quý Ly. Chỉ còn tiếng thơ của ông cảm hoài nơi xa vắng: “Quê hương dễ thấy đầu dần bạc/ Quán khách khôn cầm tóc trắng xanh…”

Những đoạn như vậy trong bài bút ký dài gần 5 ngàn từ này làm xốn xang bao nỗi lòng của người đọc, níu giữ chúng ta và làm cho chúng ta không sao yên ổn được, nếu như chúng ta không phải là người vô cảm, vô tâm.

Hồ Đăng Thanh Ngọc viết “Chuyện Huế”, dĩ nhiên là nhiều chuyện xảy ra ở Huế, Thừa Thiên. “Nghe thơ trong đêm hoàng cung”, “Chiều chiều xách giỏ đi câu”, “Sắp lát thịt heo lên mâm cơm Huế”, “Quán rắn góc trời”. Chất giọng thủ thỉ trong những bút ký này tôi nghĩ là rất hợp với người Huế - nói cách khác là có bản sắc riêng. Thủ thỉ thôi, kiệm lời, nhưng đọc thấy sự tâm đắc của tác giả. Anh muốn truyền đạt sự tâm đắc đó đến những ai quan tâm vì lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người qua tấm lòng (tức là cái tâm người ta thường nói) với những tình cảm cao đẹp của họ - điều mà các tác phẩm văn chương nghệ thuật hướng tới. Vẻ đẹp sâu xa, cái vẻ đẹp chẳng dễ dàng gì nhìn thấy này, được Hồ Đăng Thanh Ngọc với giọng văn riêng của mình, chấm phá một cách thầm thì, hơi giấu đi, lẩn đi, chẳng một chút ồn ào rao giảng, nhưng không vì thế mà nhòa nhạt, cạn vơi hay hời hợt.

“Gió quấn cả mái tóc dài của Êlisa (một nữ sinh viên Pháp) lên mắt mũi tôi như thể một loài mây lạ, không dễ gì quên được. Đang lâng lâng vì cảm giác kỳ lạ ấy, Êlisa bỗng kéo tay tôi đứng lại, chỉ vào trong lùm cây ven đường. Tôi nhìn theo hướng tay nàng chỉ, nhận ra dưới gốc lau có một tổ chim sơn ca đất có hai con chim nhỏ xíu đang run bắn vì lạnh. Tôi dốt đặc ngoại ngữ nhưng cũng đủ kinh nghiệm đôi tay để ra hiệu là nên dùng khăn để quấn cho chúng nó đỡ lạnh. Êlisa làm theo tôi, lấy chiếc khăn nàng đang dùng thoang thoảng mùi nước hoa thơm nhẹ nhàng quấn cho đôi chim non. Bất giác tôi thấy Thế (nhân viên kiểm lâm cùng đi) mỉm cười…”

Nhưng chiếc khăn đó không bị gió cuốn đi như tấm lòng trong lời nhạc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Người kiểm lâm tên Thế đó đã trở lại lấy chiếc khăn “trả đôi chim non lại cho thiên nhiên thật sự, bởi mẹ chúng cũng đã sắp về”. Thế về tìm chúng tôi để trao lại khăn cho Êlisa. Bấy giờ nàng không có mặt ở đó, đã ra suối tắm hoặc ngắm cảnh gì đó. Tôi tìm đến bên bờ suối. Êlisa rất ngạc nhiên khi biết được câu chuyện. Nàng hỏi: “Thế đâu rồi?” Thế đã đi rồi! “The cung la gio” - nghe như nàng nói sau một tiếng thở dài nhẹ và buồn… tác giả kết thiên bút ký trong cơn lốc trên đỉnh Vọng Hải Đài “Vâng, chính trong cơn lốc mịt mù ấy, núi Bạch Mã đã có một thứ gió khác, thứ gió ấy trong mỗi người chúng ta ai cũng có miễn là có cơ hội để thoát thai ra, ngọn gió của nồng ấm tình yêu thiên nhiên và cả con người” (Gió trên đỉnh Bạch Mã)

Trong “Chiều chiều xách giỏ đi câu” Hồ Đăng Thanh Ngọc không những miêu tả rất giỏi, rất sống động về các loại câu (câu cần, câu cặm, câu giăng, câu chùm, câu vợt...), về nghệ thuật câu từng loại cá như “câu cá trê phải biết cách giật cần vì cá trê ngậm mồi xong thì kéo mồi đi giật lùi nên phải giật cần cùng chiều với hướng phao chạy mới mong lưỡi câu móc vào mép cá”... mà còn bày ra bao nhiêu là tâm trạng, cảm giác cùng những liên tưởng giàu ý nghĩa nhân văn và đậm chất folklore. Chuyện cổ tích chàng Lười, lười đến nỗi đi câu nằm ngửa mà câu, được con cá nhỏ giật lên bờ cũng lười không thèm bắt để nó cứ giãy tanh tách dưới gốc cây, con quạ bay qua cắp đi mất. Cũng nhờ con cá này mà Lười ta lấy được vợ đẹp con một ông giàu có nhất vùng. Người con gái này (thực ra là con của Yàng trên trời) đã làm cho Lười hết lười, chăm chỉ làm ăn và trở nên giàu có cũng nhất vùng...

Lại nữa, câu hò ru em xứ Huế “Chiều chiều ông Lự ra câu/ Cái ve cái chén cái bầu sau lưng”? Ông Lự chỉ vua Duy Tân trong câu hò mái nhì “Chiều chiều trước bến Văn Lâu ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm…” hay là ông Lự ở xóm Cửa Trài (sát đồn Mang Cá hiện nay) nổi tiếng lúc bấy giờ là một “mệ” Huế câu tài tử; hay đích thực là ông Ngự - ông già Bến Ngự tức cụ Phan Bội Châu như có nhiều người đã giải thích đã hiểu trong đó có người viết bài này là tôi?

Hồ Đăng Thanh Ngọc cứ thủ thà thủ thỉ kể chuyện tương tự như vậy trong suốt cả tập sách, với một giọng văn riêng, một chất văn riêng trong thể loại ký. Đọc xong (không chỉ một lần) “Chuyện Huế” tôi bất chợt đặt ra một câu hỏi trong đầu óc, một câu hỏi vớ vẩn một chút nhưng rất thật lòng: Trong đại trà tứ xứ các nhà văn viết ký trong nước ta giờ đây, những ai là người có thể tiếp nối được dòng mạch văn hoá của các bậc cha anh đi trước như Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường?

Tự đặt câu hỏi rồi phải tự trả lời, đó là lẽ dĩ nhiên và thường tình. Trả lời thì cũng thường tình có người tán thành có người phản đối. Tôi nghĩ rằng: có thể Hồ Đăng Thanh Ngọc là một trong những người đó.

Ký là thể loại văn học khó đọc, khó cả in ấn và bán thì... vô cùng khó! Theo kinh nghiệm riêng của tôi, ký dễ viết nhưng khó hay. Bất cứ nhà văn nhà báo nào cũng có thể viết được, viết thành, nhưng để ghi được dấu ấn trong lòng người đọc thì không mấy ai. Như là thể loại chọn người viết chứ không phải ngược lại, đúng thế chăng? Bởi vậy, có nhà văn truyện ngắn, tiểu thuyết thì hay nhưng ký lại không được thế. Mặt khác, lại có nhà văn ký hay ký giỏi nhưng hễ chạm đến truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết... thì bó tay chịu thua. Biết làm sao được khi mỗi người có sở trường, sở đoản riêng của mình!

Bằng vào tác phẩm văn xuôi là tập bút ký gần như là đầu tay của mình, thể hiện một nội lực khá dồi dào; bằng sự lao động nhà văn miệt mài cộng với lòng say mê nghề nghiệp lặng thầm và bền bỉ, tôi tin rằng Hồ Đăng Thanh Ngọc sẽ có những tác phẩm đáng lưu ý hơn, đáng trân trọng hơn trong thời gian sắp tới.

Huế 11-09
H.N
(250/12-09)


-------------
* Những dòng, chữ in nghiêng là lời văn của tác giả Hồ Đăng Thanh Ngọc.



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.

  • TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.

  • VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)

  • NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.

  • YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:                “Những lo toan năm tháng đời thường                Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".

  • VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)

  • VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.

  • NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.

  • TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001

  • LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001

  • HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.

  • HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)

  • UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).

  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...