Một giọng văn riêng trong bút ký

09:07 30/12/2009
HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

Xin phép được tâm sự đôi điều trước khi nhập đề: trên giá sách của tôi, có nhiều cuốn của bạn bè quen biết và đồng nghiệp khắp nơi trong nước gửi đến trao đổi, biếu tặng. Hàng tháng hàng năm, các chồng sách ấy cứ đầy mãi lên. Chỉ tính riêng năm ngoái 2008, độ dày của các gáy sách tôi đo được đã gần một gang tay, trong đó không ít là sách của các bạn bè đủ các lứa tuổi ở Huế.

Tôi thường có thói quen - do thì giờ có hạn là chủ yếu - năm sau đọc sách của bạn bè xuất bản năm trước. Tôi rút một cuốn hú họa trong số này mà không kịp liếc nhìn chữ trên gáy sách, thì gặp “Chuyện Huế” bút ký của Hồ Đăng Thanh Ngọc! À, một nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế vừa mới nhậm chức Phó Tổng biên tập Phụ trách Tạp chí Sông Hương, nơi tôi đã từng ngồi đó khá nhiều năm, gần ba nhiệm kỳ.

Hồ Đăng Thanh Ngọc vốn là nhà báo ở tòa soạn báo Thừa Thiên Huế, một cộng tác viên văn hoá của Tạp chí Sông Hương nhiều năm nay; tôi biết anh từ những năm 90 với bút danh Hạ Nguyên. Trong quá trình đó, tôi có đọc không ít bút ký, ký sự, phóng sự... của anh đăng trên các báo địa phương, trung ương. Ấn tượng đầu tiên là cây bút này xông xáo nhiều nơi, hay quan tâm đến những vấn đề về văn hóa sử.

Dở trang đầu tiên của “Chuyện Huế” tôi bắt gặp ngay mục lục in ở trang ba mặt sau của bìa trong: “Gió trên đỉnh Bạch Mã, Mùa lễ hội trong mưa, Vũ điệu của huyền thoại, Thành phố của nghệ thuật sống; rồi… Bản di chúc của đất trời, Người đọc sử nơi đáy sông, Giai nhân xứ Huế”...

Phải nói ngay rằng, Hồ Đăng Thanh Ngọc đã chọn lựa khá chặt chẽ: mười bảy bài, một trăm bảy mươi trang trong hàng trăm bài anh đã viết hơn mười năm qua. Tôi đọc từ đầu đến cuối mặc dù có bài tôi đã đọc trước đó trên các báo hàng ngày, hàng tuần. Thấy rằng tác giả đã không nề vất vả, công phu sửa chữa, nâng lên khá kỹ, khá tâm huyết. Vì vậy mà chất lượng tác phẩm đã được cải thiện rõ rệt, không như những gì tôi đọc anh lần đầu. “Những ngọn nến” là một ví dụ. Bài bút ký viết nhân ngày kỷ niệm 10 năm thành lập Đội công tác xã hội Thanh niên Huế. Một đề tài khô khan và hơi… nhàm chán, phải không? Vậy mà ta hãy đọc: “… Nắng xuyên qua mắt lá đến chỗ tôi ngồi lấp lóa như đang có muôn ngàn ngọn nến vừa được thắp lên; và tôi chợt thấy mình đang bị một dòng ký ức xa xưa tưởng đã ngủ yên lâu rồi đánh thức dậy… Nếu đã là nến thì phải cháy hết mình, không kể đó là ngọn nến thắp ban đêm hay ban ngày… Vấn đề là chúng ta đã được thắp sáng cho nhau hay không”...

Thể loại ký trong văn học không thể nào thiếu sự việc, sự kiện. Đã đành là như vậy nhưng nếu sự việc cứ chồng lên sự việc mà không có hoặc không thấy bóng dáng con người cùng những nghĩ suy, cảm xúc, nỗi niềm… của họ thì chẳng khác gì thực vật, mọi chuyện sẽ trơ khấc ra, chẳng đem lại cho ai điều gì cả! “Bào Đột hương trang” chứng minh thêm cho ta điểm này. Những sự kiện dập dồn, lớp lớp, trùng điệp... gần như suốt cả nghìn năm văn hiến xảy ra ở nơi thánh địa của dòng họ Hồ, từ ông nguyên tổ là Hồ Hưng Dật cho đến Hồ Quý Ly... và sau này nữa là Hồ Phi Phúc (tức Nguyễn Phi Phúc thân phụ Nguyễn Huệ), Hồ Tông Thốc, Hồ Xuân Hương v.v... kéo mãi đến thời hiện đại giờ đây là Hồ Tùng Mậu cùng con cháu của ông được dồn nén trong bút ký, cảm xúc ngập đầy tư đầu cho đến đoạn cuối.

... “Sách xưa nói rằng cứ 300 năm bình địa trả qua một lần dâu bể… Bào Đột cũng không thoát khỏi quy luật ấy, diễn biến can qua của những cuộc bể dâu đã xóa tan bao cung điện, đền đài... Có chăng còn lại bây giờ là hương trang vẫn một màu xanh bình yên thăm thẳm cho con cháu tìm về. Có những người chí cao ngút trời song không bao giờ về được lại hương trang Bào Đột. Một trong số đó là “Anh hùng di hận kỷ thiên nien” Hồ Quý Ly. Chỉ còn tiếng thơ của ông cảm hoài nơi xa vắng: “Quê hương dễ thấy đầu dần bạc/ Quán khách khôn cầm tóc trắng xanh…”

Những đoạn như vậy trong bài bút ký dài gần 5 ngàn từ này làm xốn xang bao nỗi lòng của người đọc, níu giữ chúng ta và làm cho chúng ta không sao yên ổn được, nếu như chúng ta không phải là người vô cảm, vô tâm.

Hồ Đăng Thanh Ngọc viết “Chuyện Huế”, dĩ nhiên là nhiều chuyện xảy ra ở Huế, Thừa Thiên. “Nghe thơ trong đêm hoàng cung”, “Chiều chiều xách giỏ đi câu”, “Sắp lát thịt heo lên mâm cơm Huế”, “Quán rắn góc trời”. Chất giọng thủ thỉ trong những bút ký này tôi nghĩ là rất hợp với người Huế - nói cách khác là có bản sắc riêng. Thủ thỉ thôi, kiệm lời, nhưng đọc thấy sự tâm đắc của tác giả. Anh muốn truyền đạt sự tâm đắc đó đến những ai quan tâm vì lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người qua tấm lòng (tức là cái tâm người ta thường nói) với những tình cảm cao đẹp của họ - điều mà các tác phẩm văn chương nghệ thuật hướng tới. Vẻ đẹp sâu xa, cái vẻ đẹp chẳng dễ dàng gì nhìn thấy này, được Hồ Đăng Thanh Ngọc với giọng văn riêng của mình, chấm phá một cách thầm thì, hơi giấu đi, lẩn đi, chẳng một chút ồn ào rao giảng, nhưng không vì thế mà nhòa nhạt, cạn vơi hay hời hợt.

“Gió quấn cả mái tóc dài của Êlisa (một nữ sinh viên Pháp) lên mắt mũi tôi như thể một loài mây lạ, không dễ gì quên được. Đang lâng lâng vì cảm giác kỳ lạ ấy, Êlisa bỗng kéo tay tôi đứng lại, chỉ vào trong lùm cây ven đường. Tôi nhìn theo hướng tay nàng chỉ, nhận ra dưới gốc lau có một tổ chim sơn ca đất có hai con chim nhỏ xíu đang run bắn vì lạnh. Tôi dốt đặc ngoại ngữ nhưng cũng đủ kinh nghiệm đôi tay để ra hiệu là nên dùng khăn để quấn cho chúng nó đỡ lạnh. Êlisa làm theo tôi, lấy chiếc khăn nàng đang dùng thoang thoảng mùi nước hoa thơm nhẹ nhàng quấn cho đôi chim non. Bất giác tôi thấy Thế (nhân viên kiểm lâm cùng đi) mỉm cười…”

Nhưng chiếc khăn đó không bị gió cuốn đi như tấm lòng trong lời nhạc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Người kiểm lâm tên Thế đó đã trở lại lấy chiếc khăn “trả đôi chim non lại cho thiên nhiên thật sự, bởi mẹ chúng cũng đã sắp về”. Thế về tìm chúng tôi để trao lại khăn cho Êlisa. Bấy giờ nàng không có mặt ở đó, đã ra suối tắm hoặc ngắm cảnh gì đó. Tôi tìm đến bên bờ suối. Êlisa rất ngạc nhiên khi biết được câu chuyện. Nàng hỏi: “Thế đâu rồi?” Thế đã đi rồi! “The cung la gio” - nghe như nàng nói sau một tiếng thở dài nhẹ và buồn… tác giả kết thiên bút ký trong cơn lốc trên đỉnh Vọng Hải Đài “Vâng, chính trong cơn lốc mịt mù ấy, núi Bạch Mã đã có một thứ gió khác, thứ gió ấy trong mỗi người chúng ta ai cũng có miễn là có cơ hội để thoát thai ra, ngọn gió của nồng ấm tình yêu thiên nhiên và cả con người” (Gió trên đỉnh Bạch Mã)

Trong “Chiều chiều xách giỏ đi câu” Hồ Đăng Thanh Ngọc không những miêu tả rất giỏi, rất sống động về các loại câu (câu cần, câu cặm, câu giăng, câu chùm, câu vợt...), về nghệ thuật câu từng loại cá như “câu cá trê phải biết cách giật cần vì cá trê ngậm mồi xong thì kéo mồi đi giật lùi nên phải giật cần cùng chiều với hướng phao chạy mới mong lưỡi câu móc vào mép cá”... mà còn bày ra bao nhiêu là tâm trạng, cảm giác cùng những liên tưởng giàu ý nghĩa nhân văn và đậm chất folklore. Chuyện cổ tích chàng Lười, lười đến nỗi đi câu nằm ngửa mà câu, được con cá nhỏ giật lên bờ cũng lười không thèm bắt để nó cứ giãy tanh tách dưới gốc cây, con quạ bay qua cắp đi mất. Cũng nhờ con cá này mà Lười ta lấy được vợ đẹp con một ông giàu có nhất vùng. Người con gái này (thực ra là con của Yàng trên trời) đã làm cho Lười hết lười, chăm chỉ làm ăn và trở nên giàu có cũng nhất vùng...

Lại nữa, câu hò ru em xứ Huế “Chiều chiều ông Lự ra câu/ Cái ve cái chén cái bầu sau lưng”? Ông Lự chỉ vua Duy Tân trong câu hò mái nhì “Chiều chiều trước bến Văn Lâu ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm…” hay là ông Lự ở xóm Cửa Trài (sát đồn Mang Cá hiện nay) nổi tiếng lúc bấy giờ là một “mệ” Huế câu tài tử; hay đích thực là ông Ngự - ông già Bến Ngự tức cụ Phan Bội Châu như có nhiều người đã giải thích đã hiểu trong đó có người viết bài này là tôi?

Hồ Đăng Thanh Ngọc cứ thủ thà thủ thỉ kể chuyện tương tự như vậy trong suốt cả tập sách, với một giọng văn riêng, một chất văn riêng trong thể loại ký. Đọc xong (không chỉ một lần) “Chuyện Huế” tôi bất chợt đặt ra một câu hỏi trong đầu óc, một câu hỏi vớ vẩn một chút nhưng rất thật lòng: Trong đại trà tứ xứ các nhà văn viết ký trong nước ta giờ đây, những ai là người có thể tiếp nối được dòng mạch văn hoá của các bậc cha anh đi trước như Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường?

Tự đặt câu hỏi rồi phải tự trả lời, đó là lẽ dĩ nhiên và thường tình. Trả lời thì cũng thường tình có người tán thành có người phản đối. Tôi nghĩ rằng: có thể Hồ Đăng Thanh Ngọc là một trong những người đó.

Ký là thể loại văn học khó đọc, khó cả in ấn và bán thì... vô cùng khó! Theo kinh nghiệm riêng của tôi, ký dễ viết nhưng khó hay. Bất cứ nhà văn nhà báo nào cũng có thể viết được, viết thành, nhưng để ghi được dấu ấn trong lòng người đọc thì không mấy ai. Như là thể loại chọn người viết chứ không phải ngược lại, đúng thế chăng? Bởi vậy, có nhà văn truyện ngắn, tiểu thuyết thì hay nhưng ký lại không được thế. Mặt khác, lại có nhà văn ký hay ký giỏi nhưng hễ chạm đến truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết... thì bó tay chịu thua. Biết làm sao được khi mỗi người có sở trường, sở đoản riêng của mình!

Bằng vào tác phẩm văn xuôi là tập bút ký gần như là đầu tay của mình, thể hiện một nội lực khá dồi dào; bằng sự lao động nhà văn miệt mài cộng với lòng say mê nghề nghiệp lặng thầm và bền bỉ, tôi tin rằng Hồ Đăng Thanh Ngọc sẽ có những tác phẩm đáng lưu ý hơn, đáng trân trọng hơn trong thời gian sắp tới.

Huế 11-09
H.N
(250/12-09)


-------------
* Những dòng, chữ in nghiêng là lời văn của tác giả Hồ Đăng Thanh Ngọc.



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).