Một câu hỏi - cần trả lời

14:18 19/11/2009
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

Nhà văn Nguyễn Đình Chính - Ảnh: lethieunhon.com

1. Có người đã đi tìm nguyên nhân ở đội ngũ các nhà phê bình nghệ thuật. Lớp già thì không còn viết nữa. Lớp cứng tuổi thì bận làm việc khác như quản lý, viết báo. Lớp trẻ thì quá mỏng. Hình như trong hội nghị toàn quốc viết văn trẻ họp 1998, điểm danh chỉ còn 5 nhà phê bình trẻ tuổi thường xuyên hành nghề phê bình.

Nếu làm một tổng duyệt cho giới phê bình nghệ thuật thì thấy như thế này:

- Trước năm 1945, gia tài của họ để lại chẳng là bao. Đáng chú ý có một vài công trình tuyển chọn và bình thơ văn. Phần đóng góp về lý luận của họ không có gì đáng kể, ngoài một số khảo cứu có tính trực cảm và kinh nghiệm chủ nghĩa. Họ để lại tác phẩm chứ không xây nổi nền móng, dù chỉ là vài viên đá tảng cho các thế hệ phê bình nghệ thuật tiếp sau.

- Từ năm 1945 đến 1975: Một đội ngũ đông đảo các nhà phê bình nghệ thuật được đào tạo ở trong nước và các nước XHCN khối Liên Xô cũ. Phương pháp khảo sát của họ chủ yếu là Phán xét. Có một câu nói nôm na mà lại gần như là lời của "Chúa" ban cho công việc phê bình nghệ thuật "Biểu dương cái tốt. Phê phán cái xấu". Mọi lao động chủ yếu trong phê bình nghệ thuật chỉ là cố tìm ra cái đúng cái sai trong nghệ thuật. Phương pháp khảo sát theo lối phán xét này được bảo hiểm bởi một loạt tiêu chuẩn và nguyên lý chung. (Mà những tiêu chuẩn, nguyên lý đó luôn được coi là bất biến và có giá trị như chân lỹ mỹ học). Cho tới nay chưa có một công trình nào tổng kết một cách toàn diện sòng phẳng khoa học về giai đoạn 30 năm này. Nhưng phải xác nhận đây là một giai đoạn rất có trật tự. Và có lẽ nó đã xây dựng xong một cái móng khác chắc cho phê bình nghệ thuật Việt Nam đương đại.

- Giai đoạn từ 1975 đến 1985: Đó là một giai đoạn ngắn và hết sức kỳ quặc. Trên một cái móng vững chắc đó, đáng nhẽ phải hăm hở tiếp tục xây cất lên những tòa lâu đài tráng lệ, thì hình như có một do dự. Sự do dự này hoàn toàn xuất phát từ những nhu cầu có tính trắc nghiệm và đầy ngờ vực về chính ngay cái nền móng vừa xây.

Và điều đó dẫn đến một đòi hỏi Đổi mới trong phê bình nghệ thuật. Đòi hỏi này thoạt đầu là đòi hỏi về phương pháp khảo sát. Và sau đó là những đòi hỏi, xem xét lại các tiêu chuẩn và nguyên lý chung. Đã có mấy năm rất náo nhiệt. (hình như là từ 1985 đến 1990). Nhưng cuối cùng thì trật tự lại được lập lại. Sự bình yên lại ngự trị trên nền móng cũ đó. Có nhiều nguyên nhân "Trở về mái nhà xưa". Một trong những nguyên nhân đó là do chính các nhà phê bình gây nên đó là sự chuẩn bị không kỹ lưỡng về học thức. Và tính nhẹ dạ, cả tin, lại hay thay đổi trong phương pháp luận của họ. Những năm tháng này khiến ta nhớ câu nói vu vơ: "Cao Biền giậy non".

- Giai đoạn mười năm gần đây: Giai đoạn này có thể tóm gọn một câu sỗ sàng: Chẳng có cái gì cả. Cảnh trí phê bình nghệ thuật buồn như một nẽ vẽ nghệch ngoạc, cô độc và thỉnh thoảng ồn lên một vụ xì- căng đan.

2. Đi tìm câu trả lời cụ thể, nôm na cho cái sự phê bình dĩ hòa vi quí, nhạt hơn nước ốc hiện nay. Đã đến lúc chưa? Và nếu đó là việc phải làm ngay thì bắt đầu từ đâu và như thế nào? Phương thức khảo sát bằng kinh nghiệm và trực cảm.

- Có một thú vị trong phê bình nghệ thuật là vài năm trở lại đây, không ai khác, chính những văn nghệ sĩ sáng tác lại hăm hở xông ra làm cái công việc cần làm ngay này. Phải xác nhận là họ chứ không phải các nhà phê bình, thỉnh thoảng lại khoắng lên rổn reng như vậy. Và họ đã làm được gì và làm theo phương pháp nào.

Nói ngay thôi. Đọc các bài phê bình nghệ thuật của các văn nghệ sĩ sáng tác thì thấy họ đều sử dụng phương thức trực cảm và kinh nghiệm chủ nghĩa. Một phương thức cổ xưa như trái đất. Cần phải hiểu phương thức khảo sát này như thế nào cho đúng? (Nói tóm tắt): các tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo chủ yếu bởi trí tưởng tượng phóng khoáng, tự do. Và các yếu tố cấu thành đặc thù của nghệ thuật là tình cảm, trực giác và cảm giác. Vì vậy thông qua trực cảm và kinh nghiệm có thể tiếp cận được với các tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên đừng có giả vờ mà quên đi rằng: trí tưởng tượng tự do, phóng khoáng thường hay thăng hoa quá đà dẫn đến tình trạng võ đoán, lố bịch và phóng đãng, vì vậy sẽ phá vỡ sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, giữa khái niệm và hiện thực. Khảo sát nghệ thuật bằng kinh nghiệm, trực cảm có thể có những phát hiện sắc sảo, kỳ lạ về cái đặc thù của nghệ thuật - những phát hiện này xuất hiện như nhũng bóng chớp thoáng qua rực rỡ, ngắn ngủi. Tất cả chỉ có vậy. Cách khảo sát này tỏ ra bối rối không thể tiếp cận nổi cái khái quát của nghệ thuật mà phương pháp tư duy hình tượng lại rất dễ dàng tiếp cận và khảo sát có hiệu quả cụ thể cái khái quát này.

Một đáng tiếc cho các văn nghệ sĩ sáng tác làm phê bình nghệ thuật. Họ có thể tạo ra những vụ việc gây sự chú ý. Họ gây được "không khí". Nhưng về lý luận họ chẳng đóng góp được giá trị gì khả dĩ có thể gọi là quí báu và mới mẻ cho phê bình nghệ thuật đương đại Việt Nam. Hôm nay đột nhiên họ đến. (Vì sao họ đến - có thể vì họ đang bí sáng tác). Họ làm rộn ràng ầm ĩ lên như vậy. Còn ngày mai? Chắc là họ sẽ lại bỏ đi đột ngột như khi họ đến. Và bỏ lại cái sân chơi phê bình nghệ thuật cho các nhà phê bình chuyên nghiệp mà thôi.

3. Còn một cách khảo sát tác phẩm nghệ thuật dựa trên thị hiếu xã hội đương thời. Nhưng, nói sòng phẳng, cái cách khảo sát này không có đủ tư cách của một phương thức khảo sát nghệ thuật. Nó không có chỗ đứng trong ngôi đền nghệ thuật. Phải nhắc đến nó vì hiện nay nó có nguy cơ lộng hành.

Gần đây thấy xuất hiện không ít kiểu khảo sát tác phẩm nghệ thuật hoàn toàn không dùng tư duy trừu tượng không dùng trực cảm, kinh nghiệm mà chỉ dựa vào thị hiếu xã hội. Cái cách khảo sát này không có và không bao giờ có khả năng tiếp cận tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy người khảo sát chỉ có thể đứng ở xa xa nhìn ngó, lắng nghe, hóng hớt. Toàn bộ công việc của họ chỉ là để thiết lập một mối quan hệ nào đó mờ ám ngoài văn nghệ giữa công việc của họ với người đọc. Mục đích của họ chỉ là tìm mọi cách hầu hạ thỏa mãn thị hiếu xã hội đương thời. Cách khảo sát kiểu này không có một giá trị nào nghiêm túc, và tỏ rỏ ra vô nghĩa với tác phẩm nghệ thuật đang được họ khảo cứu. Có 1 nhà phê bình trực cảm, kinh nghiệm lớn đương đại ở Mỹ đã từng tỏ ra kinh ngạc và khinh bỉ gọi những kẻ xử dụng cách khảo cứu này là những tên "bồi tào lao" của một nền thị hiếu xã hội luôn thay đổi thất thường đỏng đảnh.

Ở một khía cạnh nào đó, thị hiếu có thể hiểu là tình cảm về cái đẹp được văn hóa xã hội nhào nặn. Với một xã hội có nền văn hóa cao thì thị hiếu, đôi khi cũng có thể trở thành một giá trị nào đó ở một cấp độ nào đấy của nghệ thuật. Và tất cả cũng chỉ vẻn vẹn có như vậy mà thôi.

4. Tác phẩm nghệ thuật là một sản phẩm vô giá kỳ diệu của con người. Vị trí của nó rất lớn và rất cần thiết cho từng dân tộc. Bởi vì: thông qua các tác phẩm nghệ thuật, các dân tộc đã ký thác vào đó những chiêm nghiệm nội tâm và những biểu tượng của mình. Chúng tôi trích dẫn câu nói nổi tiếng trên của một triết gia vĩ đại về mỹ học cũng là muốn bày tỏ một suy nghĩ: Việc khảo sát một tác phẩm nghệ thuật là vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi một phương pháp tư duy khoa học chặt chẽ và một trực cảm kinh nghiệm sâu sắc. Điều đó càng thấy để trở thành 1 nhà phê bình nghệ thuật đích thực thì khó khăn biết nhường nào. Và qua đó trước tiên cần phải có 1 thái độ ứng xử hết sức thận trọng với công việc phê bình nghệ thuật và cá nhân những người làm công việc phê bình nghệ thuật.

N.Đ.C
(126/08-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THÚYCon gì sáng bốn chântrưa hai chântối bốn chân?Câu đố của Sphinx

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, nước Nga đã có những biến đổi chính trị sâu sắc làm thay đổi đất nước trên nhiều phương diện: chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục và văn học nghệ thuật… Những nền tảng xã hội, những chuẩn mực đạo đức trước đây đã từng tồn tại trên bảy chục năm, được tiếp nối qua nhiều thế hệ đã thay đổi.

  • TRẦN QUỐC HỘIGenette coi thời gian là nhân tố trung chuyển cốt truyện đến truyện kể, qua hành vi kể chuyện. Ông đã sáng tạo ra mô hình xử lý thời gian rất thú vị, mô hình xử lý của ông xung quanh những vấn đề cơ bản như trình tự, tốc độ, tần suất kể chuyện.

  • HÀ VĂN THỊNH                                                  Luận điểm trung tâm của Tư tưởng Hồ Chí Minh là Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đó là quan điểm chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình Cách mạng Việt . Chính vì thế, nắm bắt một cách sâu sắc tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Lê Nin để vận dụng thật sáng tạo kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười (CMT10) vào hoàn cảnh cụ thể của Cách mạng Việt Nam (CMVN) là mục đích xuyên suốt của Tinh thần và Tư tưởng Hồ Chí Minh.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNĐây là hai vấn đề tôi tâm đắc nhất trong nhiều vấn đề lý thú được nêu lên trong  tác phẩm của André Chieng (1).

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(tiếp theo và hết)Trong tập chuyên luận của A.Cheng, tìm hiểu những nguyên nhân tư tưởng tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong 3 thập kỷ qua, từ chương này sang chương khác, tác giả nhấn mạnh những nét đặc sắc của văn hoá Trung Hoa:...

  • NGUYỄN HỮU QUÝ1. Einarokland, nhà thơ Na Uy đã phát biểu tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa, tổ chức ở Vácsava tháng 10 năm 2001 rằng: “Con người, còn ngôn ngữ thì còn thi ca. Thi ca biết tự lo toan cho bản thân mình”.

  • BẢO NHÂNỞ nước ta, Huế được xem là kinh đô của Phật giáo, không phải bởi vì ở đây có nhiều chùa tháp, đông đảo tín đồ theo Phật hay từng có một thời là cái rốn của Phật giáo Việt , biệt xuất nhiều bậc cao tăng đương đại. Theo chúng tôi, nói như nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì tính cách Huế, không phải Nho, mà chính là Thiền.

  • ĐỖ LAI THÚY(Tiếp theo Sông Hương 11/2007)Tiếng nói của tình yêu đồng giới, của dục cảm đồng giới không chỉ bằng ngôn ngữ của hữu thức, trực tiếp, mà chủ yếu còn bằng ngôn ngữ của vô thức, hàm ẩn.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆPNhững ai gần Trương Đăng Dung, thường nghe anh nói nhiều về các loại giới hạn: giới hạn của đời, sự phi lý của cõi nhân sinh, sự cản trở của những tín điều xưa cũ...

  • TƯỞNG THUẬT TRÁC Có phải hiện nay văn học đang đối mặt với thời đại tiêu dùng hay không? Nhiều người còn hoài nghi vấn đề này. Thậm chí có người còn phủ định sự có mặt của thời đại tiêu dùng trong khi miền Đông và miền Tây Trung Quốc đang có sự không cân bằng và tất cả đều đang xây dựng một xã hội khá giả.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHKhông Lộ là một vị thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng Đà-la-ni.

  • THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.

  • TÂM VĂNNgười xưa có câu: “Tòng thiện bất túc dĩ vi chính” (Chỉ theo điều thiện thì không đủ để làm chính trị). Câu nói đó xem ra rất đúng với Tào Tháo.

  • LƯU KHÁNH THƠ1. Nam Trân trong dòng thơ tả chân của phong trào thơ mớiHoài Thanh đã dùng khái niệm tả chân để định danh một nhóm các tác giả Thơ mới tương đối gần nhau về bút pháp.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)

  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.

  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).