Một bản sắc "Thần Kinh"

10:36 28/08/2008
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.

Tập sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" (NXB Thuận Hoá – Chi hội Nhà văn Việt Nam Thừa Thiên Huế - 2002) phần nào là tiếng nói minh chứng và tổng kết cho sự đa dạng trong một bản sắc thần kinh.
Đời sống văn học chung của đất nước đã khẳng định rằng: vị trí của các nhà văn Thừa Thiên Huế là một dàn hợp xướng xứng đáng với chiều kích sang trọng riêng. Mười ba hội viên Hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế, mười ba chân dung gương mặt - cuộc đời - tác phẩm, đấy là bức tranh phác thảo vừa nổi bật từng cá tính chủ thể của người cầm bút, vừa hoà điệu trong dòng chảy những tầm nhìn và sự phong phú của các giá trị văn học nói chung. Như lời nói đầu của tập sách:"Đây là một cuộc điểm danh, thống kê, hiểu một cách khác là một dịp biểu dương thành tựu, mặc dù theo yêu cầu cao của xã hội, của ngay cả bản thân nhà văn, thành tựu đó chưa hẳn đã là rõ ràng và chắc chắn còn xa với đỉnh điểm của sự nghiệp văn chương”, vừa rất khiêm tốn, thành thật, vừa ghi nhận và tự hào, nên tập sách đã là địa chỉ tin cậy tập hợp chân dung các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế, do chính các tác giả cung cấp.
Cùng với phần tiểu sử của mỗi nhà văn là lời tự bạch của từng người, cuối cùng là phần giới thiệu những tác phẩm được xem là tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của họ. Ta bắt gặp trang đầu tập sách chân dung rạng rỡ và đằm thắm của nhà thơ nữ Lâm Thị Mỹ Dạ. Sự rạng rỡ và đằm thắm như lời tự bạch "ánh sáng cuả cái đẹp đã dẫn dắt tôi" vô hình chung, cũng là phong cách đặc trưng cho hồn thơ của chị. Một cách thức trực cảm từ thế giới xung quanh bằng những vi tế nhạy bén khác thường của người phụ nữ, đi qua cảm hứng yêu thương để xâu chuỗi tất cả những tình yêu thành "chuyện cổ nước mình", thành "ném thia lia", "mưa... hay vòm cây long não thân thuộc, là những hình ảnh rất bình thường giữa đời sống mà trong cuộc đời đôi khi phải ân tình lắm mới có người để ý. Ta bắt gặp một nhà thơ Ngô Minh mộc mạc, nói giọng hồn nhiên mặn mòi của gió, của nắng, của những niềm yêu với biển. Đó quả là giọng thơ "đứa con của cát", chất chứa khí phách miền Trung rồi nặng lòng với Huế mà "Tìm tôi tìm Huê", làm nên một "đám cưới" lương duyên vì văn chương cùng cố đô. Mở rộng với lòng người, tên người, tên đất, với những địa danh và cảm xúc đất nước dào dạt là nhà thơ Vĩnh Nguyên, nhà thơ - nhà viết sử Nguyễn Đắc Xuân.. Hay tấm lòng "rực hồng biển lửa" và trào sôi nhiệt huyết tuổi trẻ nhưng không kém phần lãng mạn hào hoa của một thuở xuống đường, là chân dung của nhà thơ Võ Quê.. .Ít nói, lặng lẽ, kiệm lời, không cả tự bạch, lại thấy chân dung một hồn thơ ở phía khác, phía "Dòng sông một bờ" hay là "Mưa hai mặt", nơi mỗi câu thơ như đá tạc (ý của nhà thơ Thanh Thảo) một người - thơ Nguyễn Khắc Thạch...
Đan kết với chân dung các nhà thơ tài hoa, chân dung của các nhà văn hội viên tại Thừa Thiên Huế cũng đã phần nào nói lên sức sống mạnh mẽ của văn xuôi đương đại. Vừa độc đáo bởi sự mộc mạc, trữ tình, vừa hấp dẫn vì lối dẫn dắt như sống thật, viết thật, đấy là phong cách bút ký nhưng cũng rất mạnh tay ở thể truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Hà. Nhà văn nữ Hà Khánh Linh lại phác hoạ chân dung mình trong lòng bạn đọc, chân dung của một "Ngôi sao xanh" đắm đuối, mộng mơ nhưng không kém bạo liệt, khắc khoải; cũng như thơ của chị với tên thật nữ sĩ Nguyễn Khoa Như Ý. Muốn giải mã những tác phẩm của nhà văn Hồng Nhu, người đọc lại phải để hồn mình thật sự lang thang chìm đắm trong những hương vị tinh tế của sự thâm trầm, nhiều ẩn tượng từ đời sống, từ tác phẩm... cho những khao khát về triết lý đời sống con người mà không phải ai cũng dễ dàng thấu cảm. Chỉ với hai đoạn trích từ tiểu thuyết "Những cánh cửa đã mở", của nhà văn Nguyễn Khắc Phê và "Phía ấy là chân trời" của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, chúng ta lại có thể hình dung được chân dung của hai nhà văn chuyên về tiểu thuyết, với sự thâm nhập đời sống, vốn sống phong phú, cả những kinh nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm mà đôi khi phải một đời cầm bút mới được trải nghiệm. Mong manh như một luồng sáng - đấy là cảm thức tôi muốn gọi tên khi đọc những tập truyện ngắn của nhà văn nữ Trần Thuỳ Mai, cũng như hai tác phẩm nhiều hư ảnh và lôi cuốn "Khói trên sông Hương", "Thương nhớ hoàng lan" mà chị đã lựa chọn và giới thiệu. Cùng nhiều bạn đọc, tôi mê cái chất ký lãng đãng mà rỡ ràng như những triết luận trong các tác phẩm của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ở anh, điều gì hình như cũng có thể hồn nhiên chắt lọc thành ý niệm, như lời tự bạch về sự hư cấu khi anh vá chiếc áo khinh cừu thực tế - chiếc áo mà không ít lần đã sưởi ấm tâm hồn những người yêu Huế, yêu văn.
Thực tế hay sự mộng mơ của người đọc khi đến với những cá tính làm nên sự đa dạng của bản sắc thần kinh trong văn chương, đã bắt nguồn và khơi lên từ 13 chân dung nhà văn ấy. Tập sách thực sự còn là một tư liệu văn hoá, văn học quí. Mặc dù, do những khó khăn và khuôn khổ cuốn sách, tập sách chưa hiện diện đầu đủ một xâu chuỗi tiến trình văn học cố đô qua nhiều thế kỷ, nhưng sức hút và sự trang trọng vẫn thể hiện trong mỗi dòng chữ như những gì người đọc đã có trên tay. Đó là một đóng góp và ghi nhận lấp lánh vẻ đẹp của bản sắc thần kinh, với mỗi chân dung nhà văn là một nẻo về riêng biệt. Và cũng trong tinh thần cảm thấu mà ghi nhận ấy, người đọc sách mong mỏi bạn đọc sẽ thể tất cho những thiếu sót khi giới thiệu tập sách này, vì những điều kiện và khả năng để đề cập...
V.T
(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾN    

    Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.