Dễ ai quên câu hát: “Trời sinh voi trời không sinh cỏ, Thượng đế buồn Thượng đế bỏ đi”.
Trong cuốn Hành trình về phương đông của Dr Baird T.Spalding (Nguyên Phong dịch) có đề cập đến một vị đã dùng kính thiên văn khuyếch đại tìm Thượng đế, và cho rằng Thượng đế thật sự đã “bỏ đi”. Vẫn nghĩ Thượng đế vẫn còn đó, trời còn đó nhưng trời không sinh “cỏ” trong lúc vẫn sinh “voi”. Thế nên động vật trên địa cầu mới tranh chấp, lấn chiếm diện tích để sinh tồn.
Ở quê hồi tôi còn nhỏ, đất đai nhà nào nhà nấy rộng rinh, vườn“mi thông với vườn tau - có chăng ngăn bởi bụi chè tàu thưa. Chưa hề có khái niệm bán đất, ai quy hoạch vườn tược hay khai hoang đất cồn, đấy quả là nhà tiên tri thời đại. Thế hệ ông bà chuyển giao quan hệ láng giềng cho mẹ cha, đất vẫn như bèo dâu. Chuyển tiếp qua đời con cháu, đất bắt đầu rục rịch. Chuyện từ một vài đứa con của làng đỗ đạt lên tỉnh học hành, chúng thấy quá chật chội trong những căn phòng cho thuê hay ở các ký túc xá. Đất chật người đông. Cụm từ “tấc đất tấc vàng” nay được hiểu tận cùng nghĩa đen. Chúng trở về quê mang theo nhiều hoài bão.
Không phải qua thời đói vàng mắt, người dân không đào côộc chuối ăn thay cơm nữa mà lúc đó chuối mọc nhiều. Hoàn toàn không. Chuối là một loài thân mềm, bão cấp 6 cũng đủ quật gãy, sao được nhiều người dân trồng làm hàng rào ngăn cách, làm “biên giới” giữa vườn nhà này với vườn nhà kia?
Chuối lớn nhanh, đẻ “con” cũng nhanh. Một cây chuối không bị tước quyền sống cứ ngang nhiên đẻ con qua đất láng giềng. Chả mấy ai để ý. Ừ, chuối chứ có phải tường bao bê tông hay hàng rào điện tử Mcnamara đâu, cứ để nó lớn, lớn lên thì người ta chặt cho trâu bò lợn gà ăn. Người từng ra thành phố không nghĩ ngắn như người chưa thoát khỏi lũy tre làng. Chiến lược chiếc gậy và củ cà rốt được áp dụng. Láng giềng bên kia trồng chuối lên kế hoạch thay hàng rào, chuối mọc đến đâu tính đất đến đó. Láng giềng bên này mới bắt đầu khởi động tư duy. À té ra chúng lấn đất. Dòng trích lục, nhà còn nhà mất, nhà bị mối mọt nhắm đường biên mà gặm trước. Nhưng đa phần không có trích lục. Ông cha để đất lại cho cháu con thế nào ở thế ấy. Nào ai quan tâm. Có nhà giở trích lục, gọi cả trí thức của làng đến cũng chịu không xác định được ranh giới. Cũng có trường hợp xin làm cái chòi ở tạm trong vườn ông vườn bà, chòi được cơi nới thành nhà. Nhà được nới vườn tược để trồng rau canh tác phục vụ thức ăn tại chỗ. Sau đất đai báo động, ông nọ bà kia đuổi, khách nhất mực không chịu đi, một hai đất này của bà tui... Đất bị láng giềng đểu cướp trắng trợn. Đã có xung đột sứt đầu mẻ trán...
Những mảnh vỡ, những mẩu chuyện tưởng vụn vặt ở nông thôn quê tôi xưa đã thành đề tài lớn mang tầm quốc tế bây giờ.
Quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Nước bạn đã phù phép thổi bay “dòng trích lục” về biển đảo Tổ quốc, xem đó là chứng cứ tầm thường, không đủ sức thuyết phục, và rắp tâm chiếm bằng được nguồn lợi từ biển Đông vốn của chung các nước ASEAN (trong đó có Việt Nam), và không ngoại trừ Mỹ.
Thông tin “vượt biên” cho hay, người dân nước bạn hầu như mù tịt về Hoàng Sa và Trường Sa. Phần còn lại biết rõ hai quần đảo đó của Việt Nam thì cũng tìm cách bưng bít. Con dân nước Việt “hiểu biết” quá nhiều về nước bạn thông qua truyền thông; phía con dân nước bạn thì ngược lại. Chúng ta chỉ mới có một vài trang thông tin chính thức bằng tiếng nước bạn để chuyển tải nội tình qua phía “bạn”. Còn xu hướng học tiếng nước bạn trong sinh viên các trường đại học của ta đang gia tăng... Bài học lịch sử cho thấy, ngày xưa chúng ta thắng Mỹ chủ yếu nhờ ý chí quyết tâm của toàn dân tộc cộng với sự giúp đỡ từ các nước XHCN anh em, song cũng có một phần nhờ vào sự đấu tranh từ phía nội bộ chính quyền Mỹ, và đặc biệt từ người dân Mỹ. Họ thừa biết cuộc chiến tại Việt Nam là cuộc chiến tranh phi nghĩa; việc họ phải giao con cái cho quân đội Mỹ lại càng phi lý.
Trên mạng chính thức của nước bạn tuyên bố nếu không xác lập được quyền lợi từ biển Đông bằng hòa bình, nước bạn sẽ xác lập bằng quân sự. Trở lại chuyện láng giềng nông thôn. Nếu tôi có một khu vườn chính danh, không ai dễ cướp trắng; nhưng đến một ngày trái đất “hết đất”, nếu kẻ xấu đến “xin” đất vườn tôi để chôn người thân của họ, tôi sẵng sàng hiến.
22/06/2011
N.N
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!