NGUYỄN QUANG HÀ
Đi trên đường phố Huế bao giờ cũng có cái cảm giác êm ả. Nhất là mỗi lần từ trong Nam ra, ngoài Bắc vào, đến Huế, ta như vừa bất chợt gặp lại sự yên lành.
Hội hoa xuân Huế
Đối diện với sự náo nhiệt sôi sục như thác chảy trên đường phố Sài Gòn, thì Huế, các cô nữ sinh áo dài trắng, quần trắng, nón trắng, giày trắng vẫn ôm cặp bước từng bước một như sợ cả tiếng guốc gõ mạnh làm giật mình đường phố của mình. Đối diện với sự nơm nớp mỗi khi đi vào ngõ hẻm Hà Nội, thì những kiệt nhỏ ở Huế bờ rào chè tàu vuông vắn, góc cạnh lúc nào cũng như ấm áp bàn tay người.
Đường phố Huế mùa xuân càng bình yên hơn. Mọi tốc độ trên đường càng như thư thả lại. Những tà áo dài cũng như nhẹ nhàng hơn. Giống như dòng sông Hương trôi chậm, những màu áo khoe sắc trên đường phố tạo nên một dòng sông hoa lững lờ. Thiên nhiên và con người ở Huế gắn chặt với nhau khéo như sự hài hòa màu sắc dưới bàn tay một họa sĩ tài hoa, màu nọ tôn màu kia lên chứ không hề khỏa lấp lẫn nhau trong các bức họa của mình. Vì thế nên nắng rất mỏng, gió rất mỏng, sương ban mai rất mỏng, tạo nên vòm trời Huế hôm nay hư hư thực thực, mong manh như một giấc mơ. Cái đẹp của Huế đúng là cái đẹp của dịu dàng, bình yên.
Tôi đi lang thang trên đường phố một mình. Hai tay đút túi. Thả từng bước như vô tình, như kẻ vô công rồi nghề, và cũng như một kẻ bất đắc chí nữa. Tôi không quên bao nhiêu cuộc hẹn hò, mà giờ này bạn bè đang chờ tôi. Ở đó có rượu mùi mùa xuân, có nem lụi, một chút dưa món Huế vừa dòn vừa chua chua, cay cay, ngòn ngọt, một dĩa mứt quất trong như hổ phách là những thứ mà tôi rất thích. Nhưng tôi đã bỏ tất cả, cả bạn bè, cả những tiếng cười. Phút giây này tôi lại thích lang thang.
Tôi không phải là một kẻ lập dị, càng không phải là kẻ lúc nào cũng làm ra vẻ mình là người quan trọng. Những thứ phù phiếm ấy ý nghĩa gì? Song đúng là tôi đang bị mất hồn, hồn tôi đang bị hút vào lá thư tất niên của Lũy.
Cho đến tận mười giờ khuya đêm qua, mọi công việc tết nhất đã xong xuôi cả, chuẩn bị cho giờ giao thừa thì người đưa thư thân thuộc mới đem lá thư đến cho tôi: Nào, anh ra nhận cho tôi lá thơ cuối cùng của năm cũ nào. Thế là tôi đã hoàn thành công việc đem niềm vui cho mọi người.
Chúng tôi cụng chén với nhau một ly rượu tất niên, chúc nhau một năm mới đầy may mắn. Anh bưu điện đi khỏi, tôi xé toang cái phong bì, hấp tấp mở lá thư ra đọc. Lá thư quả có đem đến cho tôi chút niềm vui được tin tức bạn bè, một chút thế thôi, còn đa phần nội dung thư đã làm tôi suốt đêm giao thừa không hề chợp mắt.
"Cậu biết đấy, sau cái đêm đánh trung đoàn xe tăng ở núi Tam Thai, mình được khiêng về tuyến sau. Và thế rồi người ta đã cưa mất cái chân phải của mình. Dẫu sao như thế mình cũng đã trở thành kẻ tàn phế. Những năm qua, kẻ lành lặn kiếm miếng ăn còn khó khăn nữa là, kể gì mình. Ngẫm đi nghĩ lại, mình còn hơn những đứa bạn của chúng mình không còn bao giờ gặp gia đình vợ con nữa. Mấy đứa phục viên ngồi tính lại, vậy là đại đội mình vào Bác Đô (bí danh của Huế lúc ấy) một trăm năm mươi nhăm đứa, giờ trừ cả què cụt, tâm thần còn được mười bảy thằng.
Chúng nó cũng như mình, đổ máu cho Huế mà chưa bao giờ gặp Huế cả. Ngày ấy chúng tôi hẹn hò với nhau sẽ ngồi bên bờ Sông Hương nghe hò mái nhì, sẽ lên thăm chùa Thiên Mụ nổi tiếng và sẽ đi khắp cung điện đền đài lăng tẩm nổi tiếng cho thỏa cái chí trai của chúng mình...
Trời! Chúng chết cả một loạt. Mình què ngồi đây. Nhiều lúc ngồi một mình nhớ thương chúng nó quá chừng. Thôi, mùa xuân này, cậu nhớ, đừng quên đấy, đến nghĩa trang của thành phố Huế thắp hương cho từng đứa một, và thắp hương cho cả đồng đội của chúng ta thời đánh Mỹ nữa. Nhớ nhé...."
Với những lời thư của Lũy ấy, tôi nghiễm nhiên trở thành một kẻ bất đắc chí chứ sao. Vì, tôi biết thắp hương cho từng đứa một ở chỗ nào đây. Tôi không dám nói Huế đã quên máu xương những người đã chết, nhưng điều hiển nhiên này thì có thật: Huế chưa có nghĩa trang cho thành phố của mình. Rồi đây Huế sẽ gom những nắm xương kia như thế nào thì tôi chưa biết.
Bất chợt tôi sờ lại chiếc túi đeo trên vai, mấy thẻ hương vẫn còn đây. Tách đường Nguyễn Huệ, ngược đường Nam Giao lên Đài tổ quốc ghi công của thành phố.
Tôi quẹt diêm, châm lửa vào bó hương, cúi đầu lầm rầm khấn vái bạn bè, rồi cắm hương vào bình nhang. Đài liệt sĩ là nơi để thắp hương, đặt vòng hoa tưởng nhớ, chứ không có bia mộ gì hết. Bia mộ ở đây thì chôn vào đâu, chẳng lẽ biến cái Đàn Nam Giao này thành nghĩa trang ư? Không hiểu lúc ấy nghĩ thế nào họ quyết định biến cái đàn tế trời đất, một di tích văn hóa này thành đài liệt sĩ. Nghe nói ở chân đài, nơi đó nguyên có hai viên đá rất kỳ quan. Chỉ cần hai viên đá đó, nhà vua lầm rầm tế trời, xung quanh hàng vạn người nghe rõ, giống như có một hệ thống loa phát thanh vậy. Quý thế, vì không hiểu, nghe đâu họ đập ra rồi để xây chân đài.
Nếu điều đó có thật hẳn hương hồn các liệt sĩ cũng phải đau lòng, bởi vì họ, một tài sản quý giá của quốc gia đã bị phá, một di tích lịch sử bị vùi dập. Chẳng lẽ Huế không có một chỗ nào làm nghĩa trang, dựng đài chăng?
Rời đài liệt sĩ lòng tôi cứ bâng khuâng, rối bời. Tôi hòa mình trong những dòng sông hoa mùa xuân bình yên. Sao lúc ấy tôi lại nghĩ rằng dòng sông hoa kia yên một cách vô tình làm vậy. Liệu có ai đang cùng ý nghĩ với tôi không.
Người Huế yêu con Sông Hương hiền hòa chảy qua thành phố. Nhưng họ lại rất mặc cảm với những con đò. Giống như Nguyễn Bính đã có câu thơ viết về dòng sông này: "con sông không rộng mà dài. Con đò không chở những người chính chuyên". Đi trên cầu Tràng Tiền hôm nay, tôi cũng nhìn trên dòng sông những con đò nho nhỏ, dập dềnh. Một câu hỏi xốn xang trong lòng tôi: "Con đò nào là con đò của ông Xạo?"
Ngày ấy ông Xạo là chủ một con đò trên sông. Người đời chỉ biết ông thế thôi. Trần Hàng là chiến sĩ công an của thành phố. Anh nhận lệnh về giết 1 tên Việt gian ở đường Chi Lăng, về Huế, anh được đưa đến ở trong con đò của ông Xạo. Thấy chủ đò là một người lầm lỳ suốt ngày, khó hiểu, anh làm công tác quần chúng, không khí trong đò chẳng hơn chút nào. Hàng báo cáo ra ngoài về sự lo ngại của mình. Ngoài đưa tin về cho anh yên tâm: ông chủ đò ấy là người của Đảng. Lòng hoài nghi, ý định chuyển chỗ ở của Hàng không còn nữa.
Lòng tin của Hàng càng được củng cố, cả khi một cô gái rách rưới cắp khoai đi bán dọc bến đò. Nhận ra tín hiệu chiếc khăn mu-xoa thắt nơi cổ tay, Hàng biết đây là người mang đạn đến cho mình, anh mua khoai.
Chưa bao giờ Hàng gọt môn cắt môn kỹ càng thế. Những viên đạn giấu kín trong từng củ môn rất khéo. Hàng tìm đi, tìm lại chỉ được năm viên. Còn thiếu một viên. Không ngờ, trong bữa ăn, chợt ông Xạo nhai cái đốp, tưởng vỡ răng. Ông lấy trong miệng ra một viên đạn.
Quay nhìn gia đình, con cái, ông Xạo đặt viên đạn trước mặt Hàng:
- Của chú Hàng này.
Hàng nhận đủ sáu viên đạn. Trước gia đình ông Xạo, Hàng đã bị lộ. Anh không phải người làm công, mà là người của cách mạng cài vào. Song Hàng đã không chuyển chỗ ở, cho đến khi anh hoàn thành nhiệm vụ Hàng mới tạm biệt vạn đò.
Vậy mà một thế hệ đã đi qua... Người mất. Người còn. Người trở thành anh hùng. Người là liệt sĩ...
Trong di chúc, Bác Hồ dặn lại một điều rất quan trọng là sau khi thống nhất đất nước, phải chỉnh Đảng. Hẳn trí thông tuệ của Người đã nhìn suốt không gian, nhìn suốt thời gian đất nước này.
Chuông nhà thờ Thiên Hữu đổ một hồi dài dóng dả, vang vọng. Bất giác tôi nhìn đồng hồ. Đã mười hai giờ trưa. Người trên đường Trần Hưng Đạo, trên đường Lê Lợi đông đúc, tấp nập hẳn lên từ hồi nào. Có lẽ người trong các nhà đổ ra đường phố hết. Dòng sông hoa ngược xuôi náo nhiệt.
Việc đầu tiên hôm nay, thắp hương cho bạn bè, tôi đã làm xong. Việc khá thiêng liêng trong ngày tết, đi chúc tết, tôi chưa làm. Song không thể vì lý do gì mà không làm. Chắc chắn người đầu tiên tôi phải đến chúc tết là anh Vương Mâu. Với tôi, hình ảnh anh lúc nào cũng nằm ở một góc trái tim. Khi tư tưởng cách mạng đến quê hương Phú Đa của anh thì anh bước ngay vào đội ngũ. Đất nước kêu gọi Nam tiến, anh xách súng lên đường. Từ đấy, ra đi biền biệt. Bỏ lại vợ dại và một con thơ ở nhà. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, anh ra thẳng miền Bắc tập kết, hy vọng hai năm sau tổng tuyển cử thống nhất đất nước sẽ về gặp lại vợ con ở quê hương. Không ngờ cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài. Anh về Nam chiến đấu, nhưng chưa được về quê. Cho đến ngày thống nhất đất nước, thế là cách xa suốt hai mươi bảy năm trời vợ chồng mới gặp nhau thì cả hai đã già. Đứa con duy nhất của anh chị, lớn lên đi theo đường cha, đã anh dũng ngã xuống ngay giữa chiến trường. Tiếp bước chồng, tiếp bước con, chị Mâu cũng từ giã quê hương, tìm đường lên chiến khu hoạt động.
Đã có lần trở lại thăm Phú Đa, gặp những người quen, hỏi lại chuyện cũ. Nhắc tới gia đình anh Mâu, không ngờ gia đình anh là một gia đình có nhiều liệt sĩ nhất của xã Phú Đa anh hùng này. Tổng cộng, gia đình anh đã cống hiến cho cách mạng mười sáu người con liệt sĩ, trong số đó mười lăm người là đảng viên thuộc ba thế hệ, kể từ cha anh, đến con anh và các cháu thúc bá! Mẹ anh sinh năm người con trai, thì cả bốn người kia, trừ anh, là liệt sĩ.
Tôi rời Nghinh Đình, nhờ một con đò nhỏ sang sông. Đi bên lề dòng sông hoa, tìm về xóm anh Mâu. Nhà anh không ở ngoài mặt đường, mà ở tít mãi trong xóm. Ngôi nhà nhỏ nhoi, anh khoe với tôi ngày mới giải phóng Huế, anh mua bằng chính tiền lương " B trọc" của mình dồn tích lại suốt tám năm vào chiến trường. "Phải có mái nhà Hà ạ, để đón bà ấy về. Thôi thì không có con cái thì vợ chồng sống dựa vào nhau lúc tuổi già".
Tôi tới cổng, nhìn ngôi nhà, ngôi nhà chẳng sửa sang gì thêm, vẫn giống như bữa tôi đến đây hồi nào. Vừa thấy tôi, cả hai anh chị đã ùa ra đón. Gặp hai ông bà già đã lục tuần, cô đơn, tự nhiên tôi mủi lòng. Phải chi gặp nhau bà còn sức sinh cho anh thêm một đứa. Ý nghĩ ấy tôi không dám nói ra. Chỉ chúc mừng:
- Năm mới chúc anh chị khang an.
Anh Mâu vui vẻ:
- Mình chi xin chữ an, còn chữ khang thì chắc là chả được.
Trong câu chuyện bên bàn trà, tôi hỏi:
- Năm nay anh chị sống thế nào?
- Vợ chồng mình cứ túc tắc với đồng lương. Năm nay yếu rồi, không nuôi lợn được nữa, mình chuyển qua chăm gà vịt cho vui.
Tôi đùa:
- Biết thế này, thời anh làm trưởng trại giam Thừa Phủ, nước sông, công phạm kiếm chút gì làm vốn thì nay chắc đỡ.
Anh Mâu xua tay rối rít:
- Nếu như thế thì mình đâu còn là mình nữa. Mấy năm nay về hưu, anh em, bạn bè cứ đến thăm đều đều, ấy là sự giàu có lắm rồi. Nếu mình chỉ nghĩ đến mình, có thể kiếm chác được tí chút đấy. Song chắc không thoát khỏi cái quả báo của sự cô quạnh.
Tôi ngước nhìn lên tường, tấm huân chương quân công hạng ba nhà nước tặng cho anh chị, có ghi một dòng rất rõ ràng: "Có công đã đóng góp và hy sinh lớn lao cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc". Tấm huân chương này khẳng định đức độ của anh hôm qua, và sự thanh bạch trong cuộc sống bây giờ. Có lẽ chính vì vậy, lúc chia tay nhau, anh nhắc tôi:
- Cậu qua thăm anh Vĩnh một chút, động viên thêm cho anh ấy.
Qua lời nhắc của anh, tôi biết anh đang còn lo cho công việc lắm, vì anh Vĩnh cũng đã về hưu, song vẫn phải đảm nhiệm công việc cho Phường. Chân ướt chân ráo, nghỉ chưa ấm chỗ, đảng ủy Phước Vĩnh đã bầu anh làm bí thư. Hết khóa, anh xin nghỉ, giới thiệu một người khác, cả đảng ủy vẫn tín nhiệm dồn phiếu cho anh. Còn trong quân ngũ, anh là trung tá quân báo. Nhưng cái quý ở anh là cái tình. Nghe tin người vợ ở nhà bị địch o ép, đã đi bước nữa, anh buồn lắm. Dĩ nhiên ở tuổi trẻ, anh cũng phải lo cho hạnh phúc của mình. Và chiếc thuyền con lênh đênh của anh đã đậu bến nơi người vợ của đồng đội mình đã hy sinh, để cùng lo cho những đứa con của bạn, khỏi để chúng bơ vơ, suốt đời anh đã xứng đáng là một người cha như thế.
Tôi đến nhà, cũng vừa lúc anh đi chúc tết về. Chị Dần, vợ anh bảo: "Ông ấy đi suốt từ sáng đến giờ đấy".
Vớ cái quạt nan, anh vừa quạt phành phạch, vừa nói như phân trần:
- Bốn cơ sở sản xuất ghế xuất khẩu của phường họ góp vốn hàng trăm cây vàng với nhau tạo dựng cung cách làm ăn mới, vừa làm giàu cho phường, vừa giải quyết hàng trăm thanh niên đến tuổi lao động, chưa có việc làm, thế là nó giúp mình đắc lực lắm, mình không đến thăm chúng sao được. Vậy mà bà ấy còn nói mình, cậu thấy có kỳ không?
Hai vợ chồng anh nhìn nhau cười. Cái cười thật trẻ trung.
Chị khoe với tôi nhưng cũng để đùa anh một cách âu yếm:
- Đồng chí bí thư đảng ủy năm nay kết nạp được năm đảng viên mới, mừng quá, suýt quên cả tết đấy cậu ạ.
Anh Vĩnh tâm sự:
- Bọn trẻ nó lên được, mình mừng lắm chứ cậu. Thời buổi này, kết nạp được một đảng viên ra đảng viên, nói thật, mình mừng lắm. Ngay cậu chủ tịch Thiệt của phường mình, nó trẻ, thương binh loại bốn trên tám vẫn hăng hái, xông xáo, chững chạc, mình cũng nhẹ cả người. Khóa bầu hội đồng vừa rồi, ở cái xứ đạo này, lần đầu tiên chủ tịch phường được dân dồn phiếu cao như thế đấy. Ở cái tuổi như mình bây giờ, kiếm được người thay là mình nghỉ liền. Thời của cánh trẻ, phải để cánh trẻ nó lo chứ. Phải không?
Cụng một ly rượu, câu chuyện của anh Vĩnh càng say sưa. Anh bàn với tôi cả ý đồ phát triển thêm nghề phụ trong phường, mời các xí nghiệp sản xuất của thành về đây để giải quyết thêm công ăn việc làm cho bà con, và đặc biệt phải bằng cách nào đó cũng được, giữ an ninh cho phường thật tốt, để bà con yên tâm mà hành nghề. Chuyện càng vui, con mắt giả của anh trông như càng ngỡ ngàng, như quên hẳn cái tuổi già của chủ nó. Hai khóa làm bí thư phường, anh Vĩnh vẫn là cái mẫu người liêm khiết. Cái tình của anh đúng là cái duyên cho đời.
Còn một người nữa tôi phải đến thăm hôm nay: anh Đang, một người cộng sản đàn anh của đơn vị tôi ngày kháng chiến. Người đời gọi anh bằng một cái tên mới: anh vé số. Từ ngày xuất ngũ, anh kiếm thêm miếng ăn cho vợ con bằng việc đi bán vé xổ số. Có ngày anh ngồi lại ga Huế, có ngày bán trên vỉa hè đường Lê Lợi. Bị công an lùa giải tỏa hè phố, anh lại cắp hộp vé số về bán ngay gần nhà trên đường Hùng Vương. Nhìn anh ngồi co ro trên ghế đẩu, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai bẹp xẹp, vai khoác chiếc áo bu-dông cũ màu, chốc chốc thúng thắng ho, mặt hốc hác tối tăm vì bệnh đau dạ dày kinh niên, đố ai nghĩ rằng con người ấy, bên đầu cầu Phủ Cam, đã một mình một khẩu súng cối sáu mươi ly chặn đứng cả một đợt tấn công của địch, cho ban chỉ huy trung đoàn lui lại phía sau.
Trước tết mấy ngày thấy vắng anh trên hè phố, tưởng anh đau. Đến thăm, hóa ra anh dẫn người lên rừng tìm mộ một người bạn. Tình cờ đến một nhà nọ có chút việc, anh nhận ra người đồng chí của mình có ảnh treo trên nhà, chuyện trò, thăm hỏi người chủ, anh xác nhận đúng là người anh đã chôn cất trên một mé đồi trong rừng sâu. Gia đình yêu cầu, ngay hôm sau anh dẫn họ đi tìm. Rừng núi khác quá, mưa gió thay đổi địa hình dữ dội, suốt một tuần không tìm thấy, đành về tính toán lại, kết thúc chuyến đi vất vả, bệnh dạ dày quật anh, không cận tết chắc anh chưa ra viện.
Anh vẫn ở một gian nhỏ trong khu tập thể bộ đội. Một vợ, ba con dại. Chị đang làm ở một cơ quan Nhà nước. Suốt mười năm nay chưa quét vôi nổi gian nhà. Mảng trần giữa nhà sắp sập, anh gỡ xuống, thay vào đó bằng tấm gỗ ván cũ kỹ, mốc thếch. Từ ngày lấy tranh che tạm gian bếp, nhà anh có rộng ra, dễ thở đôi chút. Ba đứa nhỏ lớn phồng lên, lắm đòi hòi, đồng lương vốn đã gầy còm của anh càng thêm ngặt nghèo.
Ngay trước cửa nhà anh là tấm bảng gỗ ghi số xổ số trúng giải. Từng nét chữ số rõ ràng, chân thật như con người anh. Tôi quý anh nơi ân tình cũ của người lính, càng quý thêm thời buổi bây giờ, anh vẫn là anh của ngày xưa. Trước quyền lực không biết cúi đầu. Và nghèo thật, nhưng đồng tiền không hề làm anh tối mặt, quay cuồng. Lẽ sống của anh trước sau vẫn là một tấm lòng thanh bạch.
Tôi đến đúng lúc, anh đứng trước gương sửa sang bộ quân phục cũ. Còn chị, xếp vào túi xách cho anh một bó hương khá to.
Vừa thấy tôi, anh reo lên:
- A! hay quá. Có mi nữa thì càng vui.
- Có việc gì vậy anh? - Tôi hỏi.
Anh đáp:
- Đi. Cứ đi rồi khắc hay.
Tôi đạp xe, anh ngồi sau. Anh dẫn tôi lên chùa Trà Am sau núi Ngự Bình. Góc khuôn viên nhà chùa có một vạt hơn chục ngôi mộ đất thấp tè đã nghi ngút khói hương. Anh lấy bó hương ra thắp, cắm lên từng ngôi mộ.
Tôi hỏi:
- Mộ ai vậy anh?
Anh nói, giọng nghèn nghẹn:
- Anh em mình hy sinh thời Mậu Thân đấy. Bấy giờ chùa Trà Am là nơi ta tập trung thương binh. Những người chết thì để lại. Nhà chùa chôn cho ở vạt đất này.
- Anh quen các anh ấy chứ.
- Không. Chả biết đứa nào. Dân báo lại cho thành đội rằng đây là mộ bộ đội, chưa quy được anh em về một chỗ thì mình đến thắp hương. Dân quanh Trà Am đây cũng tốt thật. Năm nào anh đến thắp hương cũng đã thấy nhà chùa và nhân dân thắp hương trước rồi. Chỉ có trong chúng ta, những kẻ đốn đời thì quên nhau chứ nhân dân thì tình nghĩa lắm.
Làm theo anh Đang, tôi cũng thắp hương lên từng ngôi mộ vô chủ này. Không biết trên vùng đất Huế, quanh Huế có biết bao nhiêu những ngôi mộ vô chủ mà tết này không có một người tới viếng thăm. Và cũng có biết bao ngôi mộ gió mưa đã xóa hết dấu vết đi rồi, làm sao tìm thấy được. Một trăm sáu mươi ba người bạn tôi cũng đang ở trong tình trạng như thế. Người hy sinh cho Huế có ít đâu. Hầu như khắp đất nước này đều gửi tới Huế những đứa con đẹp đẽ nhất của mình. Trong số hơn chục ngôi mộ ở Trà Am đây, có ai trong đại đội tôi không?
Xẩm tối chúng tôi mới về đến Huế. Dòng sông hoa vơi đi nhiều. Phút giây này họ đang tề tựu cúng lễ trong mỗi căn nhà. Riêng mùi hương trầm thì thơm ngào ngạt. Hẳn là mùi hương từ các bàn thờ, miếu mạo tỏa ra. Ở Huế có một phong tục rất hay. Bất cứ mỗi lần giỗ tết gì trong nhà, hễ thắp hương trên bàn thờ, cũng thắp ba nén hương trước ngõ cho những vong hồn lang thang không nơi nương tựa. Tục lệ nhỏ thôi, nhưng dân Huế ân tình biết bao. Các bạn tôi chắc cũng được hưởng chút ít ân tình này. Với Huế, lòng dân là nghĩa trang thơm thảo của các cô hồn.
Chợt nhớ câu thơ rất lạnh lùng của Hàn Mặc Tử viết cho Huế:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.
Ai biết tình ai có đậm đà...
Song hương trầm ngào ngạt của Huế đêm nay, giúp cho tôi cảm nhận thêm ở Huế một chiều sâu thăm thẳm, diệu kỳ.
N.Q.H.
(TCSH40/01-1990)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).