Huế và Paris

13:45 21/02/2025
                    Bút ký

1.

Tôi vẫn hay loáng thoáng trong đầu về một sự kết nối giữa hai thành phố. Hai không gian xa lạ, liệu có một mối “lương duyên”, một kiểu gắn kết trong tiềm thức về mọi thứ đang hiện hữu, về cảnh quan, về kiến trúc, về văn hóa, văn học và nghệ thuật hay không? Tôi gói ghém trong những ước mơ thời còn neo buộc dấu vết lưu lạc ở bầu trời khác, rằng, có ngày mình cũng được chạm tới những thành phố khác nữa, ngoài Huế hay là Paris. Và, nếu một khoảnh khắc đẹp, một buổi hoàng hôn nào đó, khi ánh chiều tà bắt đầu tràn lấp lánh trên những tán lá, những vòm cây cao rộng giữa mênh mông sông nước xứ cố kinh này, tôi lại nghĩ đến việc tự cho phép trí tưởng tượng của mình được đi hoang bằng cách hình dung ra từng bước chân đang lang thang dưới phố đông người xa lạ, dưới những con đường ngợp lá vàng mùa thu hay lặng lẽ ngắm bầu trời màu xám đầy mưa tuyết trắng mùa đông. Thế giới là một chiếc hộp Pandora chứa nhiều điều bí ẩn, cần tôi khám phá.

Nhưng, hiện thực là đây, nơi tôi mỗi ngày đều đặn đi qua những góc quen trên con đường chạy dọc bờ sông Hương, nơi tôi từng để trí tưởng tượng lặng yên ở bên những vệ cỏ, giữa những công viên bao quanh thành phố để ngắm một dòng chảy được nối nhịp bởi những chiếc cầu với sứ mệnh là chứng nhân của lịch sử, của tình yêu, của một nền văn hóa và nghệ thuật mang nhiều dấu tích của thời gian qua các thế hệ, thời cuộc. Tôi đã cố tình lý giải theo kiểu đong đếm, tự vấn rằng, liệu có điều gì tương hợp hay chăng, giữa chốn ấy và chốn này. Huế hay là Paris. Paris hay là Huế. Việc tự mình tìm kiếm, chiêm ngắm và quan sát mọi sự biến chuyển của vạn vật, của hoa cỏ, sắc màu trời đất, hay những chuyển động của cuộc sống chảy trôi mỗi ngày, mỗi giờ là cách chúng ta nhận diện và trân trọng thời gian.

Ở chính nơi này, dưới một bóng cây cao bóng lớn, tỏa rộng, dường như đã ở đó từ bao giờ, như tuổi trẻ của tôi lấp lánh hệt ánh sáng trên mặt nước sông kia, hoặc trước đó nữa, khi thời gian đang lướt qua tôi như những đợt sóng lăn tăn dịu dàng loang vệt màu của bầu trời xứ Huế. Tôi đã thử đưa ra một sự đối sánh theo cách mình hình dung xem đôi bờ sông Hương này và đôi bờ sông Seine nơi ấy, liệu có câu chuyện nào đang âm thầm lặng lẽ kết nối kể cả trong quá khứ lẫn hiện tại, như một ẩn ngữ của những thước phim xưa cũ, hoặc chỉ đơn giản lướt trôi đi bằng trí tưởng tượng dưới góc nhìn của một kẻ bộ hành gắn bó khá lâu trong lòng thành phố nhỏ của Huế, chứ không phải Paris?

2.

Bắt gặp những góc nhìn từ bài viết Di sản kiến trúc Pháp ở Huế của nhà nghiên cứu văn hóa Huế - Trần Văn Dũng, tôi nghĩ mình sẽ định hình thêm được nhiều điều đang muốn tìm kiếm, chẳng hạn một khác biệt nào đó trong cách cảm nhận của cá nhân về vẻ đẹp của Huế theo kiểu trải nghiệm sống, trải nghiệm sự đổi thay từng ngày của thành phố này.

Dọc cung đường Lê Lợi có sự hiện diện của khá nhiều những công trình kiến trúc Pháp mà Dũng nhắc đến với những cái tên cũ và mới, lần lượt hiện ra trước mắt tôi. Bắt đầu từ Nhà ga Huế, Đại học Huế, Học viện Âm nhạc Huế (trường Pellerin), cho đến Bệnh viện Trung ương Huế, Tòa Công chánh (Bảo tàng Văn hóa Huế), Le Grand Hotel de Hue (khách sạn Sai Gon Morin), Trường Quốc Học (nay là Trường THPT chuyên Quốc Học Huế), Trường Đồng Khánh (nay là Trường THPT Hai Bà Trưng), Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong, Câu lạc bộ Thể thao (Trung tâm dịch vụ, du lịch Festival), phần nào đó tạo nên một kết cấu mang phong cách vẻ đẹp của châu Âu cho thành phố nhỏ ở phía bờ nam sông Hương, đối diện Kinh thành Huế. Đây còn là một trục đường, thường xuyên diễn ra các sự kiện văn hóa nghệ thuật quan trọng, hay Festival bốn mùa trong năm. Tôi cứ mường tượng hình dung Huế giống như một phiên bản của một thành phố châu Âu nào khác, như một Paris thu nhỏ vậy. Thỉnh thoảng túc tắc tự chiêm quan kỹ một chút về mọi kết nối với sự có mặt của những công trình kiến trúc đã tồn tại theo chiều dài lịch sử, mọi biến thiên của bốn mùa và chưa bao giờ phai nhòa bởi dấu vết thời gian. Vẫn là Dũng lý giải về kết cấu của trục cảnh quan hai bờ sông Hương, công viên là yếu tố quan trọng trong việc tạo nên cảnh sắc đô thị của Huế. Ngoài công viên lớn chạy dọc theo bờ sông, xung quanh là các công viên nhỏ được phân bố đều ra các khu vực khác nhau của thành phố.

Trong một không gian sống xanh mướt, không quá bao la bát ngát mà vèn vẹn đôi bờ sông, dường như lại có rất nhiều những câu chuyện mang theo, tạo thành sắc màu riêng biệt của thành phố này trong tâm thức người Huế. Tôi ngỡ, với tôi, có lúc tâm thức ấy lại vời vợi hệt giấc mộng đâu đó từ khi tôi nhận diện được sự nhỏ bé của mình trong thế giới rộng lớn, bao la, nhưng vẫn luôn giữ sự đồng điệu kết nối bao quát tất thảy từ cảnh đến tình. Chẳng hạn, đơn giản như việc dành chút ít thời gian để tìm cách chứng minh tôi cũng là một phần thuộc về xứ cố kinh này. Bằng những trải nghiệm, tận hưởng đủ đầy từng khoảnh khắc thời gian, chiêm ngắm sự xoay chuyển của bốn mùa hay các chủ thể gắn liền với nhau trong không gian địa lý sông núi bao bọc, tôi nghĩ, tôi nên điểm nhãn lại những công trình kiến trúc Pháp mang dấu ấn của một vẻ đẹp từ châu Âu cho đô thị di sản, cho Huế thêm đậm đà sắc màu văn hóa Đông - Tây vừa cổ kính, vừa hiện đại. 

Thực thể - người là tôi lúc này, chẳng phải không cảm nhận được những ảnh hình đó lặp đi lặp lại đều đặn như chiếc kim đồng hồ điểm nhịp tích tắc trong từng hơi thở của mình. Đôi lúc, tôi tự tách khỏi sự mê đắm của thế giới rộng lớn bên ngoài để ngồi xuống một chiếc ghế băng dài màu nâu cổ trong công viên bên kia sông để thử phân định cảm giác, thử chiêm ngắm chi tiết sự có mặt của những hiện cảnh kia liệu phần nào mang đến cho kẻ bộ hành này thứ cảm giác được hòa mình tan lẫn trong cả mơ và thực ở nơi đây, ngay vị trí có thể quan sát được hết thảy những ảnh hình của Huế, mà mình mường tượng ra một xứ sở đài các xa xôi. Không phải, có chút gặp gỡ mà Huế cũng là một kinh đô, và Paris nơi ấy, thế giới vẫn thường gọi với cái tên “Kinh đô ánh sáng” để khẳng định giá trị của một thành phố về văn hóa và du lịch đó sao?

3.

Thật thiếu sót nếu không dành thêm đôi câu chữ cho những con người đã mang lại kết nối lịch sử, văn hóa - nghệ thuật, khi họ là một phần không thể thiếu trong những câu chuyện giữa Huế và Paris. Họ được nhắc đến như một mặc định làm nền tảng cho việc đóng góp và gìn giữ những giá trị văn hóa nghệ thuật, làm nên tên tuổi của chính họ, cho cả Huế lẫn mối “duyên” với Paris, như Điềm Phùng Thị. Bà vừa là một bác sĩ nha khoa, vừa là một điêu khắc gia được vinh danh trong Từ điển Larousse về nghệ thuật hội họa và điêu khắc của thế kỷ XX và được phong Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học, Văn học và Nghệ thuật châu Âu. Giáo sư Mady Ménier - Đại học Paris I đã nói về Điềm Phùng Thị trong một bài báo: “... Lần đầu tiên không cầu kỳ chuộng lạ hương xa, một nhà tạc tượng - trong số biết bao nhà tạc tượng từ Viễn Đông đến Paris - giành được chỗ đứng cho châu Á ngay trong lòng ngành điêu khắc rất hiện đại của Paris…”.

Nghệ thuật điêu khắc Điềm Phùng Thị là dòng nghệ thuật điêu khắc có - hình thể (figuratif). Tác phẩm “7 modules” định danh cho ngôn ngữ điêu khắc của bà, bà gọi là 7 ký hiệu (sign), một số nhà phê bình về điêu khắc xem đó là chìa khóa mở ra những cánh cửa của thế giới ý niệm, biểu tượng. Phần lớn tác phẩm của bà được để lại cho Huế, và trở thành di sản văn hóa Cố đô. Hiện nay, các tác phẩm điêu khắc của điêu khắc gia đều được trưng bày ở Trung tâm nghệ thuật Điềm Phùng Thị nằm trên đường Lê Lợi. Một số tác phẩm như “Hân hoan” (chất liệu xi măng), tác phẩm “Những người phương xa trở lại” được đặt trong khuôn viên nhà trưng bày. Một số tác phẩm điêu khắc của bà ở Pháp, theo ảnh tư liệu của Nhà trưng bày Nghệ thuật Điềm Phùng Thị/Trees, chẳng hạn Tượng đài Cây ở Saint Martin - d’Hère, Isère, Tượng đài Ngôi đền ở Indre & Loire (Pháp)…

Những cá nhân kiệt xuất của Việt Nam được vinh danh trên thế giới, như điêu khắc gia Điềm Phùng Thị không nhiều, nhưng Huế, may mắn thay lại được thừa hưởng tác phẩm của họ như một di sản văn hóa, một câu chuyện trong thế giới nghệ thuật được kể mãi. Và với Huế trên đất Pháp của Hoàng Phủ Ngọc Tường viết từ năm 1985 được đăng trên Tạp chí Sông Hương, có nhắc đến một nhân vật khác trong cuộc chuyện trò với Huy Cận khi kể về “Hội những người yêu Huế” ở Paris. Lê Bá Đảng, một họa sĩ tài danh, dù không phải gốc Huế, nhưng là cái tên không thể thiếu về những giá trị nghệ thuật sáng tạo mà ông cũng đã để lại cho Huế. Trong lời kể của Huy Cận, rằng “ông muốn xây dựng ở Bích La Đông thành một làng trồng hoa và sản xuất những hàng mỹ nghệ truyền thống”, và “xây dựng ở Huế một nhà bảo tàng Mỹ thuật Lê Bá Đảng, để lưu lại ít nhiều vốn liếng tâm hồn của anh nơi thành phố quê hương mà anh mãi mãi tự hào về di sản văn hóa lớn lao”. Và hiện nay, Không gian lưu niệm Lê Bá Đảng, tọa lạc tại Hương Thủy, thành phố Huế, là nơi lưu giữ và trưng bày hơn 400 tác phẩm của họa sĩ, tiêu biểu cho hơn 70 năm sáng tạo nghệ thuật. Cõi người ta (Cosmic Family), nằm trong loạt những tác phẩm mới nhất cũng được trưng bày tại không gian lưu niệm này và trở thành một điểm nhấn cho sự kết nối cảnh quan, kiến trúc kết hợp với nghệ thuật trưng bày, sắp đặt tinh tế, như quan điểm về sáng tạo của chính Lê Bá Đảng: “Sự giàu có đích thực của người nghệ sĩ đến từ sự đa dạng trong sáng tạo”. Họa sĩ qua đời năm 2015 tại Paris. Một bộ phim tài liệu với tựa đề “Lê Bá Đảng - Từ Bích La Đông đến Paris” của đạo diễn Đặng Nhật Minh được công chiếu ở Huế và ở rạp La Clef ở Paris để tưởng niệm ông, một con người kiệt xuất đã được Bộ Văn hóa Pháp phong tặng danh hiệu “Hiệp sĩ về Văn học và Nghệ thuật”.

Dù chưa một lần đặt chân đến Paris, nhưng có lẽ tôi được phép mơ mộng, được phép tìm hiểu những “duyên nợ” của hai thành phố này trong sự tương hợp kỳ lạ từ trong quá khứ cho đến hiện tại. Những câu chuyện mang tính kết nối các giá trị văn hóa, nghệ thuật, đến cả tên gọi của những chiếc cầu dường như cũng trở thành chút mối duyên lạ kỳ. Chẳng hạn, chiếc cầu cổ nhất trong tổng số 37 cây cầu nối hai bờ sông Seine, cầu Pont Neuf. Trong tiếng Pháp - Pont Neuf có nghĩa là “chiếc cầu mới”, vô tình hay hữu ý mà trùng với tên cầu Mới của Huế hay còn được gọi là cầu Phú Xuân.

Nếu Paris - một thành phố nằm dọc bờ sông Seine và cũng là hợp lưu của sông Seine và sông Marne, thì sông Hương là một điểm nhấn đầy thi vị của Huế có sức níu giữ những con người đã gắn bó với nơi này từ khi sinh ra, rời đi hay bắt đầu trở về. Riêng với các du khách gần xa, có lẽ cũng đủ để nhớ khi đặt chân đến dù chỉ một lần vậy. Địa hình địa thế của một thành phố khi có con sông ngăn đôi bờ, thì những chiếc cầu nối nhịp thời gian từ ký ức lịch sử, và cả những buồn vui thường nhật là điều không thể nào thiếu được trong sự gắn kết quan trọng của đời sống con người. Huế hay Paris, là cách để gọi thành tên định danh. Nhắc Paris, nhắc đến hình ảnh chiếc cầu, lại mang máng nhớ rằng mình đã từng đọc đâu đó về những dòng xúc cảm của một người đam mê chất Pháp trong công việc giảng dạy những chuyên đề về văn học nước ngoài. Người tình của Marguerite Duras có vẻ như là tác phẩm mà cô thích nhất, nên luôn được nhắc khá nhiều, đến nỗi, tác phẩm ấy trở thành một dấu hiệu để nhận biết về cô. (Vô tình hay hữu ý mà nữ văn sĩ người Pháp này lại sinh ra và lớn lên ở Việt Nam). Trần Huyền Sâm cũng đã từng đến Pháp, đã ghi lại những cảm xúc khi đứng trên chiếc cầu nối nhịp đôi bờ ở Paris nào đó, rồi đối sánh về sự hiện diện của sông Seine bằng những câu thơ cô tự dịch của Jacques Prevert: Êm ái, không tiếng động/ Nước sông không tràn khỏi lòng/ Lặng lẽ không gợn sóng/ Sông trôi về biển cả/ Chảy qua kinh thành Paris (Ca khúc sông Seine - Huyền Sâm dịch), bởi sông Seine cũng có nét trầm tư như sông Hương trong mấy câu thơ trứ danh của Thu Bồn mà cô nhắc đến: Con sông dùng dằng, con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

Một ngày đẹp trời của Huế, khi cơn mưa dấm dẳng vừa dứt giữa những đợt gió lạnh đầu đông ùa về, tôi soi mình bằng ánh mắt băng qua dòng sông Hương như một chiếc cầu nối nhịp riêng tôi. Qua bờ bên kia là Hoàng thành, là những ký ức màu rêu phủ, hay là những hình dung về một thế giới, một thời kỳ lịch sử đã xa. Bằng trí tưởng tượng mơ mộng, tôi thấy, con người có thể chạm đến tất cả mọi chân trời mà họ muốn, dù là về không gian địa lý hay không gian tâm tưởng. Tiếp tục với sự kết nối mà tôi nhận diện được giữa Huế và Paris, tôi chợt nhớ câu chuyện vừa mới đọc trên một bài báo, anh tôi thuật lại trong lời kể của một người bạn phiêu bạt xa xôi nơi mảnh đất hoa lệ, là “Kinh đô ánh sáng” rằng: “thành phố Paris, chứa chan nhiều sắc thái thiên nhiên, nhiều dạng kiến trúc khác nhau, lãng mạn và kỳ vĩ”, nhưng người bạn ấy của anh lại là người yêu Huế, nhớ Huế, luôn khát thèm được quay trở về với mảnh đất cố kinh để được chìm đắm trong lòng xứ Huế. Sông Hương hay là sông Seine? Những kết nối vô hình này bất giác lại trở thành thứ gì đó níu giữ tâm thức con người từ trong những câu chuyện của quá khứ cho đến tận bây giờ.

Tôi không biết, sẽ còn bao nhiêu kết nối như thế nữa tồn tại, và tiếp tục mang đến những câu chuyện ghi dấu ấn khác giữa Huế và Paris. Nhưng chắc chắn, đó chính là một mối duyên thầm rất đẹp, mối duyên khơi gợi sự tương đồng, khơi gợi những ước mơ. Tôi hình dung ra những chân trời lấp lánh sắc màu của một thành phố quyến rũ, xinh đẹp nào đó trong giấc mơ của mình. Tôi mộng cho Huế cũng chẳng kém phần như thành phố xa xa cách mấy đường bay, khác một bầu trời vậy. Có lần, tôi khá bất ngờ khi đọc thấy thông tin bài viết về một con đường Huế ở Rennes, Pháp. Đó là một câu chuyện, một hình ảnh kết nối rất đẹp giữa hai bầu trời và hai mặt đất, giữa thành phố Huế với thành phố Rennes (Dù không phải là Paris). Nhưng, Huế cũng đã xuất hiện ở đất nước đó. Nghe cách so sánh sự tương đồng về “những cơn mưa dài lê thê” của thành phố ấy cũng đủ để đắm mê, rồi có khi tranh thủ mơ tưởng việc chính mình đang được trải nghiệm ở cung đường Rue de Hue này.

4.

Thiết nghĩ, tương tự các thành phố phát triển công nghiệp không khói, cảnh quan và phát triển cảnh quan ở Huế vừa là một sự đầu tư dài hạn có tính chiến lược, vừa là một nhu cầu nội tại, bởi không gian sống văn minh, hiện đại tạo nên phẩm cách, dấu ấn riêng cho một thành phố giàu bản sắc văn hóa. Những công trình kiến trúc lưu lại dấu ấn nét đẹp châu Âu chắc chắn đã làm cho Huế trở nên thi vị, khác biệt.

Duyên nợ là một câu chuyện dài, để kể mãi. Duyên nợ của một dòng sông ở thành phố này, bất giác được so sánh và liên tưởng với một dòng sông ở thành phố khác xa xôi. Có lẽ những duyên nợ, nếu có, như đã được định sẵn từ trong những ký ức lịch sử có thương đau đó, nhưng vẫn được kết nối và giữ gìn bởi những dấu vết còn lại từ các công trình kiến trúc hiện diện trong thành phố nhỏ, có con sông Hương vừa đủ định hình nỗi luyến lưu như sông Seine của Paris.

Những thời khắc chuyển mùa cuối năm, Huế cũng bắt đầu man mác buốt lạnh hơi gió, bắt đầu nghe tiếng mưa vỗ đều nhịp trên từng cung đường, từng góc phố. Người đi qua, kẻ đi lại cũng đã bắt đầu quàng khăn vào cổ, khoác chiếc áo dày tìm chút thi cảm giữa khung trời mang một sắc màu quen thuộc. Chỉ khác, Huế không có tuyết rơi như mùa đông nơi xứ xa. Và chỉ khác, Huế vẫn còn vương vấn với những dấu vết của lịch sử, của thời gian bởi bóng dáng của những công trình kiến trúc cổ kính một thời đại, một cố kinh như cuốn phim quay chậm, được nhấn nút lặp lại nhiều lần với những hình ảnh quen thuộc nhưng không hề cũ kỹ.

Sau một cơn mưa đêm, thấy ánh sáng chuyển từ màu hồng hồng tím tím mờ ảo còn đọng sương trên từng lớp kính thành sắc vàng đỏ theo từng khoảnh khắc. Kẻ ham hố tham lam thứ ánh sáng bình minh đang vỡ òa dưới bầu trời, thức dậy sớm hơn thường lệ, hối hả rời khỏi nhà để ngắm cho bằng được những lấp lánh chao nghiêng trên mặt dòng sông nối đôi bờ nam - bắc. Tôi biết, có dăm bận tản bộ trong một công viên xanh, khi thử ngoái nhìn lại phía sau, tôi thấy những khoảng ký ức buồn chân, mơ mộng, tôi rời đi đâu đó xa cách dăm ba năm, vẫn tìm cách để quay trở về, và vẫn có những cơn thèm bất chợt lạ lùng, chờ đợi để đón bắt những khoảnh khắc rất bình thường quen thuộc của Huế, khi ánh sáng mặt trời bắt đầu le lói nơi đầu hồi cửa sổ của buổi bình minh, hay khi hoàng hôn tràn xuống vào một ngày nào đó lững thững rời khỏi nhà bước chậm để quan sát sự chuyển biến của sắc màu lơ lửng trên những chiếc cầu nối đôi bờ sông Hương. Trong một chừng mực nào đó, có lúc đã thử nghĩ đến vài mong muốn nho nhỏ, khi Huế đã sẵn những điều kiện về vị trí địa lý, về sự hiện diện của các di chỉ lịch sử, sự tồn tại của những câu chuyện mang tính kết nối về kiến trúc, văn hóa nghệ thuật, liệu có thể mang đến một Huế trong tương lai với những cảm giác trọn vẹn về cảnh quan đô thị mới văn minh và sạch đẹp hơn nữa.

Huế như một Paris. Huế mang đến cho tôi cảm giác nào đó rất lạ, hệt như một sự tương đồng về cảnh, về kiến trúc, nghệ thuật. Tôi cho phép trí tưởng tượng của mình bay nhảy một chút với khao khát, mong muốn, không chỉ của riêng tôi, khi hình dung một dung mạo mới của Thành phố Huế trong tương lai. Paris hay là Huế? Huế hay là Paris, chỉ như một ẩn ngữ để khi đứng trước đôi bờ sông Hương, tôi vẫn cảm nhận được sự gần gũi mơ mộng, sự kỳ vĩ, lãng mạn như sông Seine của Paris vậy. Huế đang mở ra một cánh cửa tràn đầy ánh sáng mới mẻ. Đó là một sự chuyển dịch và kiến tạo hình ảnh - không gian đô thị Xanh - Sạch - Sáng, tiếp tục bảo tồn những giá trị di sản, phát huy bản sắc, nét đẹp riêng với sự hiện diện của các công trình kiến trúc xưa cổ pha lẫn giữa văn hóa châu Âu và phương Đông.

T.B.K
(TCSH431/01-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.

  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).