Hoàng Phủ Ngọc Tường những mạch vỉa than đá

10:06 21/01/2009
NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

Tôi tự biết rằng, trong vốn liếng để hành trình trên đường đi không đến, con đường văn chương thăm thẳm của mình, có một phần “học lỏm” được từ Hoàng Phủ. Văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường là mạch vỉa than đá cung cấp nguồn năng lượng cho tâm hồn con người. Đọc Hoàng Phủ, tôi đã “thọ giáo” được rất nhiều bài học về quý báu về nhân cách sống và nghề văn...

Mỗi nhà văn là một nhà tư tưởng, họ góp phần vẽ nên bức chân dung của thời đại mình. Muốn làm được điều đó, nhà văn phải có chính kiến rạch ròi, bản lĩnh sống và bút lực mạnh mẽ để chuyển tải chính kiến của mình đến người đọc. Chính kiến đó của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tình yêu Tổ quốc và nhân dân cháy bỏng, là sự dấn thân đấu tranh để xây dựng một nền dân chủ và nhân văn cao cả. Không giống như một số người, nói khác, làm khác, nói khác, viết khác, họ luôn đeo một cái mặt nạ ngăn cách tâm trạng thực của mình với xã hội.  Hoàng Phủ Ngọc Tường khi nói chơi, hay nói bốc đồng trong cuộc rượu cũng giống y chang những điều anh viết thành văn, thành thơ trên trang sách. Anh Tường nói đến tận cùng, viết đến tận cùng của vấn đề mà không sợ sự suy diễn , quy chụp nào, vì anh đang nói, đang viết bằng cái tâm đỏ thắm của mình vì CON NGƯỜI, vì TỔ QUỐc. Nhờ chính kiến mạnh mẽ đó mà trong những bài nhàn đàm rất ngắn như Phùng Quán lạy dưa, Quẻ vị tế, Chuyện cơm hến, Con chim bách thanh. v.v... Hoàng Phủ đã lẩy ra được những vấn đề lớn, sâu thẳm về nhân văn, nhân thế như những triết lý cuộc sống, đưa đến những khoái cảm thẩm mỹ cho người đọc và sự lay thức mạnh mẽ trong dư luận. Còn trong bút ký, Hoàng Phủ đã phát hiện ra nhiều giá trị nghệ thuật mới mẻ, đẹp đến nao lòng, nhân ái tràn ngập từng trang viết, chia sẻ, cầm tay con người đứng vững trên mảnh đất nghèo đói đầy tang thương chiến tranh của xứ sở. Trong thơ, bằng cái tôi mạnh mẽ đó, Hoàng Phủ đã đào sâu đến mạch vỉa của nỗi buồn và hư vô, làm cho những hình tượng thơ có sức bám vào tâm khảm con người. Không có chính kiến mạnh, nhà văn dễ trở thành những người chuyên né tránh, tự biên tập, viết những cái hời hợi, vô bổ ngoài mình, ngoài cuộc đời! Mặt khác chính kiến đó đã tạo nên bút lực mạnh mẽ, dồi dào của nhà văn; đồng thời là chiếc ăng ten lương tâm nhạy cảm giúp nhà văn bắt được những tín hiệu thẩm mỹ nhỏ nhất trong cuộc sống!

Nhà văn chỉ có ba việc thường trực hàng ngày là đọc, đi và viết. Đọc tức là học tri thức và cuộc đời qua sách vở. Đi là học kiến thức thực tế cuộc sống. Sau đó mới đến viết, tức là tạo ra những giá trị thẩm mỹ mới từ các chất liệu, vốn liếng kiếm được. Anh Tường là người có kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực triết học, lịch sử, chính trị, địa lý, văn hóa, văn học.v.v... Anh lại là người ham đọc sách, hay suy tư nghĩ ngợi và ham đi, ham chơi, nên tôi và Nguyễn Trọng Tạo hay gọi anh Tường “là nhà hiền triết cũ còn sót lại”. Nhờ kiến thức uyên thâm đó mà Hoàng Phủ soi sáng được dưới nhiều góc nhìn khác nhau những vấn đề mà mình quan tâm, từ đó chiết ra được những ý nghĩa mới, giá trị hình tượng mới, cái mà anh Tường gọi là sự hư cấu trong bút ký. Trong tập 3, Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường có đăng bút ký Bùi Giáng trong tôi rất hay. Anh Tường viết bút ký này tháng 12 - 1998 tức là chỉ bốn tháng sau khi qua khỏi cơn hôn mê hai tháng ở Đà Nẵng, vừa mới ra viện về nhà được hơn tháng. Nghĩa là lúc đó anh đang đau đớn dữ dội, mắt anh chưa đọc tạm được như bây giờ, nên anh không đọc sách báo gì được; khi viết thì nằm trên giường đọc cho cô bé giúp việc tên là Thơm, cháu Ni hoặc Mỹ Dạ chép. Thế mà trong bút ký đó anh đã dẫn từ trí nhớ của mình đến 50 câu thơ hay của Bùi Giáng, chưa kể đến những chi tiết kỷ niệm.

Kể một chi tiết nhỏ như thế để nói rằng Tường là một cuốn từ điển sống về tri thức quả không ngoa. Tường cũng là người chăm đi, chăm ghi. Đọc bút ký, nhàm đàm, thơ của Tường ta biết được những địa danh anh đã đến: từ Rừng Hồi Lạng Sơn đến Đất Mũi, từ Núi Bài thơ Hạ Long đến Tháp Mười, từ Phố Con Mèo Câu cá ở Paris đến Trời Điện Biên mây trắng.v.v... mới hay anh ngao du khắp thế giới. Tường rong chơi với Hoài Vũ ở Vàm Cỏ Đông; lang thang cùng Trịnh Công Sơn khắp xó xỉnh Sài Gòn; la cà dọc Quảng Trị, Tây Nguyên với giáo sư Trần Quốc Vượng, Phùng Quán, Nguyễn Trọng Huấn, Nguyễn Trọng Tạo, tư bản đỏ Lê Minh Ngọc.v.v... Ở Huế, khi chưa bị bệnh, anh hay đi ngồi chiếu rượu với bạn bè. Uống thì ít mà nói thì nhiều. Anh nói như thốt lên những suy ngẫm của mình về cuộc sống mà anh vừa phát hiện ra. Có lần tôi đến mời anh đi nhậu, mệ bảo: “Ống ấy đi nói rồi”. Nói về sự học, sự đọc, sự đi của anh Tường mà buồn cho thế hệ nhà văn tuổi trên dưới 50 như chúng tôi, một thế hệ nói như thơ Hồng Nhu “Mắt là mắt của người ta - Tôi đem nhắm mở như là mắt tôi”. Do chiến tranh và sự thiên kiến, một thế hệ đã không được dạy dỗ, học hành đến nơi đến chốn, lại có không ít người vì “ kiếm ăn từng bữa toát mồ hôi”, hay ham làm giàu, ham chức tước nên không còn thời gian để đọc, để học.  Thật buồn, thật buồn!

Thơ Tường là cái thốt lên chứ không phải là cái được viết ra. Tại sao thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường lay động lòng người? Là người làm thơ, đọc thơ anh Tường, tôi biết anh không hề có ý định cách tân hình thức hay ngôn ngữ thơ.  Thơ anh là sự giãi bày những bức xúc tâm trạng, viết để giải tỏa. Vì thế mà anh vẫn giữ những thể thơ cổ điển truyền thống của dân tộc như lục bát, năm chữ, sáu chữ, tám chữ. Thậm chí trong thơ anh dùng rất nhiều chữ sáo, cũ mà từ lâu,  hình như từ những năm 60 của thế kỷ XX, đã vắng dần trong ngôn ngữ thơ như: tình sầu, sầu muộn, mộng mị, hồ rượu, lời nguyền, nét mày. v.v... Trong ngôn ngữ học người ta gọi đó là những từ “tiêu cực”, nghĩa là những từ đang ở độ tàn,  không còn được sử dụng nữa. Có chuyện vui, hồi anh chưa bị bệnh, có lần nhậu ở một nhà hàng, tôi và Nguyễn Trọng Tạo đã “chê” thơ Tường là cũ, giống y như những nhận xét trên, anh Tường buồn trầm ngâm suy nghĩ, nhưng không đỏ mặt, cũng không phản ứng gì. Nhưng đến khi cô chủ quán xinh đẹp mời anh đọc thơ thì anh “lẫy”: Mình không đọc nữa, thơ dở đọc ra ngượng chết!

Nói là nói thế, nhưng tôi bao giờ cũng rất thích những vẻ đẹp huyền bí trong thơ  Hoàng Phủ. Đó là vẻ đẹp thần thái, từ sự ngất ngưởng thi sĩ và tri thức uyên bác thốt lên, chứ không phải là viết ra! Vậy sức mạnh của thơ Hoàng Phủ là gì?.  Thứ nhất đó là sự hồn nhiên thi sĩ. Hồn nhiên như trẻ thơ, vô thức như ma ám . Không ở trạng thái không trọng lượng đó, không thể viết ra được những câu thơ giản dị mà rất thần, như một triết lý nhân sinh, lay động: Thời gian sao mà xuẩn ngốc/ Mới thôi đã một đời người; Tôi còn ngồi chi đây một mình;... Vẽ tôi nghe tiếng mơ hồ/ Bàn tay em vỗ bên bờ hư không; Tôi ra mở cửa đón người/ Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang; hay Tôi biết nơi kia có một chỗ ngồi; Vẽ tôi một đóa bông hồng/ Tàn phai từ bữa em cầm trên tay. v.v.. hay đoạn thơ trong bài Kănguru:
 Mày là con Kănguru tự do
 Của những mặt đất rạn vỡ...
 Lang thang như con ngựa hồng
 Túi đựng đầy trống không...
Vâng, đó là thơ thốt lên từ cõi Tâm cảm, Linh cảm, Chiêm cảm không thể kềm chế được! Những câu thơ như thế đọc một lần là ám ảnh. Anh Tường viết: “Than đá là quá khứ của Trái đất, nhưng than đá không bao giờ cũ, nó bị dồn nén cồn cào trong lòng đất và luôn đòi bốc cháy!” Đó chính là văn chương Hoàng Phủ. Đó cũng là mạch vỉa, là hồn vía của thơ, chứ không phải là thứ ngôn từ “làm ra vẻ bí hiểm”, lối nói đại ngôn hay cấu trúc rắc rối... mà không ít bạn làm thơ trẻ hiện nay đang ngộ nhận là hiện đại! Cái hiện đại nhất, sâu sắc nhất chính là dễ đi vào lòng người nhất! Đó mới là ngôn ngữ của bậc kỳ tài!

Một nét riêng cần nhấn mạnh là thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường có hơi hướng, khí chất như bay lên ở xứ đền đài miếu mạo thâm u linh thiêng nào đó, hay như từ đất vọng lên. Đó có phải là âm hồn Huế, âm thanh Huế, là màu sắc mùi vị Huế?
Bỏ quên đôi cánh trên trời
Em về mặt đất làm loài phù du
Tưởng cho ta cả thiên thu
Hóa ra một chút sương mù trên tay
Vâng, đó chính là tình yêu xứ sở đã hóa linh hồn, tạng văn, chất giọng của tác giả. Không có những dấu ấn hồn vía đó thì mỗi nhà thơ không thể có ngôn ngữ riêng của tâm hồn mình!
Hoàng Phủ có rất nhiều thơ về nỗi buồn, về cõi chết: Bây giờ đã hết trò chơi/ Đã tàn cuộc rượu để người ra đi”; “Mai kia tôi về ngủ trên đồi”v.v... Mai kia rồi cũng xa người/ Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa.v.v... Đó là linh cảm về phận người trong cõi đi về. Đó là vẻ đẹp huyền bí của cõi hư vô. Nỗi buồn, cõi tận cùng cái chết ấy làm cho con người trở thành con người hơn. Hay nói cách khác, chạm vào cõi không ấy, đối diện với cõi vô cùng ấy, con người mới thực là mình. Cái phi lý chính là bản chất của cái có lý. Vì thế mỗi lần đọc lại các tác phẩm của Tường, ta lại phát hiện ra lấp lánh những tầng nghĩa mới, những vẻ đẹp mới hiện ra từ tâm thức nhờ sự bốc cháy của những mạch vỉa than đá ấy!

Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nói mình là người ham chơi. Anh có hẳn một cuốn sách nhàn đàm tên là Người ham chơi. Dường như lúc nào anh cũng có mặt bên chiếu rượu với bạn bè từ rừng tới biển, từ bắc chí nam, nói đủ chuyện Đông, Tây, Kim, Cổ. Trong cuộc vui, Tường bao giờ cũng nói nhiều hơn uống. Mà nói rất hay. Cuối tháng 3/1998, Hoàng Phủ, Nguyễn Trọng Tạo cùng tôi được nhà thơ Trần Nhuận Minh, lúc đó là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Ninh mời về Hạ Long dự “Ngày thơ Quảng Ninh 29-3”. Trong cuộc Hội thảo thơ hôm đó, gần cuối buổi, vị chủ toạ bất ngờ mời Tường phát biểu. Tường xoa xoa tay rồi nói vo, vì không chuẩn bị trước: “Tôi ngồi nghe gần chục cái tham luận thấy các nhà thơ, nhà lý luận Quảng Ninh nói nhiều đến “các tính”, các “chức năng” của thơ, tôi thấy sợ quá, không dám bàn gì thêm. Tôi chỉ xin mạo muội nói một ý nhỏ: thơ cũng là sự chơi! Có chơi mới có thơ hay!.” Rồi Tường dẫn Tản Đà “Chơi cho biết mặt sơn hà - Cho sơn hà biết đâu là mặt chơi”; vừa đánh giặc xong ,Thánh Gióng bay về trời, đó là sự chơi; rồi Quan họ Hội Lim, rượu Làng Vân, tranh Làng Hồ… đều là sự chơi tài tử ở đời. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… đều là người chơi nổi tiếng đương thời. Còn Nguyễn Công Trứ thì… tay chơi hết nói! Hết “chơi Đại thần” thì “chơi lính trơn”. Chán lính trơn lại chơi lên Đại Thần. Lênh đênh một chiếc thuyền nan/ Một cô gái Huế, một quan đại thần…Trịnh Công Sơn thì rong chơi suốt mùa mà để lại cả gia tài ca khúc vô giá. Rồi Tường kết luận: “Ham chơi không phải lười biếng. Ham chơi là cách sống đạt đạo của con người đã nhìn thấy từ lâu bản chất phù hư của thế giới. Ham chơi là văn hoá gốc của người Việt. Văn chương nghệ thuật cũng là cuộc chơi thượng thặng”. Không ngờ phát biểu của Hoàng Phủ lại được mọi người tán dương, tâm đắc, chen nhau xin chữ ký...

Đó không phải là kiến thức “tầm chương” mà đã nhập tâm thành máu thịt. Nhờ đó, anh soi sáng dưới nhiều góc độ khác nhau những vấn đề mà mình quan tâm. Từ đó chiết ra được những ý nghĩa mới, giá trị hình tượng mới thấm đẫm tình yêu và trí tuệ, thành thứ văn chương “tri âm tri kỷ” làm nhiều thế hệ độc giả mê say. Có một độc giả già ở Hà Nội đã tỉ mẩn cắt từng câu của bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ in trên báo Văn nghệ, nối lại thành một bài thơ, ép plactic gửi vào Huế tặng tác giả. Từ những chuyện nhỏ gặp trong những đợt đi chơi lang thang, qua ngòi bút Hoàng Phủ biến thành những vấn đề nhân sinh thấm thía. Trong bài nhàn đàm Đất nước, Tuờng viết về con chim cà ruồng cà tiệc, người Cơ-Tu A Lưới gọi là chim patoong. Tiếng người dân tộc CaTu cà ruồng cà tiệc nghĩa là Đất nước. Tức là con chim đang kêu Đất Nước! Bởi thế mà ở Huế, chim patoong bắt đầu kêu khi vua Duy Tân bị người Pháp đưa đi dày. Người ta nghe tiếng chim kêu thành “Thôi rồi cơ cuộc”… Thôi rồi cơ cuộc”… Cho nên, Hỡi con chim patoong của người lữ hành, sao ta thấy se lòng mỗi lần chim cất tiếng gọi… Bài Con chim bách thanh lại xoáy mũi dùi vào bọn ăn nói như vẹt. Chim bách thanh hót được tiếng của muôn loài, nhưng nó không có tiếng hót riêng của mình: “Hỡi con chim tội nghiệp. Té ra trời sinh ra mi để hót bằng cái lưỡi của E-dốp!”. Nguyễn Trọng Tạo nhiều lần bảo, những điều Tường nói trong các cuộc rượu, nếu ghi âm rồi in ra, sẽ là những bài viết vô cùng thâm thuý, gan ruột. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được Nhà nước tặng Huân Chương Độc Lập( 1998), tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2007), nhưng có lẽ giải thưởng lớn nhất là văn chương của anh nằm trong lòng độc giả cả nước. 

Hoàng Phủ Ngọc Tường tuổi Bính Tý, năm 2009 này anh tròn 72 tuổi, đã vào “tuổi xưa nay hiếm”. Thế mà anh vừa cho ra mắt cuốn bút ký dày có tên “Miền cỏ thơm”, và chuẩn bị cho xuất bản tiếp một tập bút ký nữa, một mảnh vỉa than đá nữa vừa được khai mở…
N.M

(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.