Hoàng Phủ Ngọc Tường những mạch vỉa than đá

10:06 21/01/2009
NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

Tôi tự biết rằng, trong vốn liếng để hành trình trên đường đi không đến, con đường văn chương thăm thẳm của mình, có một phần “học lỏm” được từ Hoàng Phủ. Văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường là mạch vỉa than đá cung cấp nguồn năng lượng cho tâm hồn con người. Đọc Hoàng Phủ, tôi đã “thọ giáo” được rất nhiều bài học về quý báu về nhân cách sống và nghề văn...

Mỗi nhà văn là một nhà tư tưởng, họ góp phần vẽ nên bức chân dung của thời đại mình. Muốn làm được điều đó, nhà văn phải có chính kiến rạch ròi, bản lĩnh sống và bút lực mạnh mẽ để chuyển tải chính kiến của mình đến người đọc. Chính kiến đó của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tình yêu Tổ quốc và nhân dân cháy bỏng, là sự dấn thân đấu tranh để xây dựng một nền dân chủ và nhân văn cao cả. Không giống như một số người, nói khác, làm khác, nói khác, viết khác, họ luôn đeo một cái mặt nạ ngăn cách tâm trạng thực của mình với xã hội.  Hoàng Phủ Ngọc Tường khi nói chơi, hay nói bốc đồng trong cuộc rượu cũng giống y chang những điều anh viết thành văn, thành thơ trên trang sách. Anh Tường nói đến tận cùng, viết đến tận cùng của vấn đề mà không sợ sự suy diễn , quy chụp nào, vì anh đang nói, đang viết bằng cái tâm đỏ thắm của mình vì CON NGƯỜI, vì TỔ QUỐc. Nhờ chính kiến mạnh mẽ đó mà trong những bài nhàn đàm rất ngắn như Phùng Quán lạy dưa, Quẻ vị tế, Chuyện cơm hến, Con chim bách thanh. v.v... Hoàng Phủ đã lẩy ra được những vấn đề lớn, sâu thẳm về nhân văn, nhân thế như những triết lý cuộc sống, đưa đến những khoái cảm thẩm mỹ cho người đọc và sự lay thức mạnh mẽ trong dư luận. Còn trong bút ký, Hoàng Phủ đã phát hiện ra nhiều giá trị nghệ thuật mới mẻ, đẹp đến nao lòng, nhân ái tràn ngập từng trang viết, chia sẻ, cầm tay con người đứng vững trên mảnh đất nghèo đói đầy tang thương chiến tranh của xứ sở. Trong thơ, bằng cái tôi mạnh mẽ đó, Hoàng Phủ đã đào sâu đến mạch vỉa của nỗi buồn và hư vô, làm cho những hình tượng thơ có sức bám vào tâm khảm con người. Không có chính kiến mạnh, nhà văn dễ trở thành những người chuyên né tránh, tự biên tập, viết những cái hời hợi, vô bổ ngoài mình, ngoài cuộc đời! Mặt khác chính kiến đó đã tạo nên bút lực mạnh mẽ, dồi dào của nhà văn; đồng thời là chiếc ăng ten lương tâm nhạy cảm giúp nhà văn bắt được những tín hiệu thẩm mỹ nhỏ nhất trong cuộc sống!

Nhà văn chỉ có ba việc thường trực hàng ngày là đọc, đi và viết. Đọc tức là học tri thức và cuộc đời qua sách vở. Đi là học kiến thức thực tế cuộc sống. Sau đó mới đến viết, tức là tạo ra những giá trị thẩm mỹ mới từ các chất liệu, vốn liếng kiếm được. Anh Tường là người có kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực triết học, lịch sử, chính trị, địa lý, văn hóa, văn học.v.v... Anh lại là người ham đọc sách, hay suy tư nghĩ ngợi và ham đi, ham chơi, nên tôi và Nguyễn Trọng Tạo hay gọi anh Tường “là nhà hiền triết cũ còn sót lại”. Nhờ kiến thức uyên thâm đó mà Hoàng Phủ soi sáng được dưới nhiều góc nhìn khác nhau những vấn đề mà mình quan tâm, từ đó chiết ra được những ý nghĩa mới, giá trị hình tượng mới, cái mà anh Tường gọi là sự hư cấu trong bút ký. Trong tập 3, Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường có đăng bút ký Bùi Giáng trong tôi rất hay. Anh Tường viết bút ký này tháng 12 - 1998 tức là chỉ bốn tháng sau khi qua khỏi cơn hôn mê hai tháng ở Đà Nẵng, vừa mới ra viện về nhà được hơn tháng. Nghĩa là lúc đó anh đang đau đớn dữ dội, mắt anh chưa đọc tạm được như bây giờ, nên anh không đọc sách báo gì được; khi viết thì nằm trên giường đọc cho cô bé giúp việc tên là Thơm, cháu Ni hoặc Mỹ Dạ chép. Thế mà trong bút ký đó anh đã dẫn từ trí nhớ của mình đến 50 câu thơ hay của Bùi Giáng, chưa kể đến những chi tiết kỷ niệm.

Kể một chi tiết nhỏ như thế để nói rằng Tường là một cuốn từ điển sống về tri thức quả không ngoa. Tường cũng là người chăm đi, chăm ghi. Đọc bút ký, nhàm đàm, thơ của Tường ta biết được những địa danh anh đã đến: từ Rừng Hồi Lạng Sơn đến Đất Mũi, từ Núi Bài thơ Hạ Long đến Tháp Mười, từ Phố Con Mèo Câu cá ở Paris đến Trời Điện Biên mây trắng.v.v... mới hay anh ngao du khắp thế giới. Tường rong chơi với Hoài Vũ ở Vàm Cỏ Đông; lang thang cùng Trịnh Công Sơn khắp xó xỉnh Sài Gòn; la cà dọc Quảng Trị, Tây Nguyên với giáo sư Trần Quốc Vượng, Phùng Quán, Nguyễn Trọng Huấn, Nguyễn Trọng Tạo, tư bản đỏ Lê Minh Ngọc.v.v... Ở Huế, khi chưa bị bệnh, anh hay đi ngồi chiếu rượu với bạn bè. Uống thì ít mà nói thì nhiều. Anh nói như thốt lên những suy ngẫm của mình về cuộc sống mà anh vừa phát hiện ra. Có lần tôi đến mời anh đi nhậu, mệ bảo: “Ống ấy đi nói rồi”. Nói về sự học, sự đọc, sự đi của anh Tường mà buồn cho thế hệ nhà văn tuổi trên dưới 50 như chúng tôi, một thế hệ nói như thơ Hồng Nhu “Mắt là mắt của người ta - Tôi đem nhắm mở như là mắt tôi”. Do chiến tranh và sự thiên kiến, một thế hệ đã không được dạy dỗ, học hành đến nơi đến chốn, lại có không ít người vì “ kiếm ăn từng bữa toát mồ hôi”, hay ham làm giàu, ham chức tước nên không còn thời gian để đọc, để học.  Thật buồn, thật buồn!

Thơ Tường là cái thốt lên chứ không phải là cái được viết ra. Tại sao thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường lay động lòng người? Là người làm thơ, đọc thơ anh Tường, tôi biết anh không hề có ý định cách tân hình thức hay ngôn ngữ thơ.  Thơ anh là sự giãi bày những bức xúc tâm trạng, viết để giải tỏa. Vì thế mà anh vẫn giữ những thể thơ cổ điển truyền thống của dân tộc như lục bát, năm chữ, sáu chữ, tám chữ. Thậm chí trong thơ anh dùng rất nhiều chữ sáo, cũ mà từ lâu,  hình như từ những năm 60 của thế kỷ XX, đã vắng dần trong ngôn ngữ thơ như: tình sầu, sầu muộn, mộng mị, hồ rượu, lời nguyền, nét mày. v.v... Trong ngôn ngữ học người ta gọi đó là những từ “tiêu cực”, nghĩa là những từ đang ở độ tàn,  không còn được sử dụng nữa. Có chuyện vui, hồi anh chưa bị bệnh, có lần nhậu ở một nhà hàng, tôi và Nguyễn Trọng Tạo đã “chê” thơ Tường là cũ, giống y như những nhận xét trên, anh Tường buồn trầm ngâm suy nghĩ, nhưng không đỏ mặt, cũng không phản ứng gì. Nhưng đến khi cô chủ quán xinh đẹp mời anh đọc thơ thì anh “lẫy”: Mình không đọc nữa, thơ dở đọc ra ngượng chết!

Nói là nói thế, nhưng tôi bao giờ cũng rất thích những vẻ đẹp huyền bí trong thơ  Hoàng Phủ. Đó là vẻ đẹp thần thái, từ sự ngất ngưởng thi sĩ và tri thức uyên bác thốt lên, chứ không phải là viết ra! Vậy sức mạnh của thơ Hoàng Phủ là gì?.  Thứ nhất đó là sự hồn nhiên thi sĩ. Hồn nhiên như trẻ thơ, vô thức như ma ám . Không ở trạng thái không trọng lượng đó, không thể viết ra được những câu thơ giản dị mà rất thần, như một triết lý nhân sinh, lay động: Thời gian sao mà xuẩn ngốc/ Mới thôi đã một đời người; Tôi còn ngồi chi đây một mình;... Vẽ tôi nghe tiếng mơ hồ/ Bàn tay em vỗ bên bờ hư không; Tôi ra mở cửa đón người/ Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang; hay Tôi biết nơi kia có một chỗ ngồi; Vẽ tôi một đóa bông hồng/ Tàn phai từ bữa em cầm trên tay. v.v.. hay đoạn thơ trong bài Kănguru:
 Mày là con Kănguru tự do
 Của những mặt đất rạn vỡ...
 Lang thang như con ngựa hồng
 Túi đựng đầy trống không...
Vâng, đó là thơ thốt lên từ cõi Tâm cảm, Linh cảm, Chiêm cảm không thể kềm chế được! Những câu thơ như thế đọc một lần là ám ảnh. Anh Tường viết: “Than đá là quá khứ của Trái đất, nhưng than đá không bao giờ cũ, nó bị dồn nén cồn cào trong lòng đất và luôn đòi bốc cháy!” Đó chính là văn chương Hoàng Phủ. Đó cũng là mạch vỉa, là hồn vía của thơ, chứ không phải là thứ ngôn từ “làm ra vẻ bí hiểm”, lối nói đại ngôn hay cấu trúc rắc rối... mà không ít bạn làm thơ trẻ hiện nay đang ngộ nhận là hiện đại! Cái hiện đại nhất, sâu sắc nhất chính là dễ đi vào lòng người nhất! Đó mới là ngôn ngữ của bậc kỳ tài!

Một nét riêng cần nhấn mạnh là thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường có hơi hướng, khí chất như bay lên ở xứ đền đài miếu mạo thâm u linh thiêng nào đó, hay như từ đất vọng lên. Đó có phải là âm hồn Huế, âm thanh Huế, là màu sắc mùi vị Huế?
Bỏ quên đôi cánh trên trời
Em về mặt đất làm loài phù du
Tưởng cho ta cả thiên thu
Hóa ra một chút sương mù trên tay
Vâng, đó chính là tình yêu xứ sở đã hóa linh hồn, tạng văn, chất giọng của tác giả. Không có những dấu ấn hồn vía đó thì mỗi nhà thơ không thể có ngôn ngữ riêng của tâm hồn mình!
Hoàng Phủ có rất nhiều thơ về nỗi buồn, về cõi chết: Bây giờ đã hết trò chơi/ Đã tàn cuộc rượu để người ra đi”; “Mai kia tôi về ngủ trên đồi”v.v... Mai kia rồi cũng xa người/ Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa.v.v... Đó là linh cảm về phận người trong cõi đi về. Đó là vẻ đẹp huyền bí của cõi hư vô. Nỗi buồn, cõi tận cùng cái chết ấy làm cho con người trở thành con người hơn. Hay nói cách khác, chạm vào cõi không ấy, đối diện với cõi vô cùng ấy, con người mới thực là mình. Cái phi lý chính là bản chất của cái có lý. Vì thế mỗi lần đọc lại các tác phẩm của Tường, ta lại phát hiện ra lấp lánh những tầng nghĩa mới, những vẻ đẹp mới hiện ra từ tâm thức nhờ sự bốc cháy của những mạch vỉa than đá ấy!

Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nói mình là người ham chơi. Anh có hẳn một cuốn sách nhàn đàm tên là Người ham chơi. Dường như lúc nào anh cũng có mặt bên chiếu rượu với bạn bè từ rừng tới biển, từ bắc chí nam, nói đủ chuyện Đông, Tây, Kim, Cổ. Trong cuộc vui, Tường bao giờ cũng nói nhiều hơn uống. Mà nói rất hay. Cuối tháng 3/1998, Hoàng Phủ, Nguyễn Trọng Tạo cùng tôi được nhà thơ Trần Nhuận Minh, lúc đó là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Ninh mời về Hạ Long dự “Ngày thơ Quảng Ninh 29-3”. Trong cuộc Hội thảo thơ hôm đó, gần cuối buổi, vị chủ toạ bất ngờ mời Tường phát biểu. Tường xoa xoa tay rồi nói vo, vì không chuẩn bị trước: “Tôi ngồi nghe gần chục cái tham luận thấy các nhà thơ, nhà lý luận Quảng Ninh nói nhiều đến “các tính”, các “chức năng” của thơ, tôi thấy sợ quá, không dám bàn gì thêm. Tôi chỉ xin mạo muội nói một ý nhỏ: thơ cũng là sự chơi! Có chơi mới có thơ hay!.” Rồi Tường dẫn Tản Đà “Chơi cho biết mặt sơn hà - Cho sơn hà biết đâu là mặt chơi”; vừa đánh giặc xong ,Thánh Gióng bay về trời, đó là sự chơi; rồi Quan họ Hội Lim, rượu Làng Vân, tranh Làng Hồ… đều là sự chơi tài tử ở đời. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… đều là người chơi nổi tiếng đương thời. Còn Nguyễn Công Trứ thì… tay chơi hết nói! Hết “chơi Đại thần” thì “chơi lính trơn”. Chán lính trơn lại chơi lên Đại Thần. Lênh đênh một chiếc thuyền nan/ Một cô gái Huế, một quan đại thần…Trịnh Công Sơn thì rong chơi suốt mùa mà để lại cả gia tài ca khúc vô giá. Rồi Tường kết luận: “Ham chơi không phải lười biếng. Ham chơi là cách sống đạt đạo của con người đã nhìn thấy từ lâu bản chất phù hư của thế giới. Ham chơi là văn hoá gốc của người Việt. Văn chương nghệ thuật cũng là cuộc chơi thượng thặng”. Không ngờ phát biểu của Hoàng Phủ lại được mọi người tán dương, tâm đắc, chen nhau xin chữ ký...

Đó không phải là kiến thức “tầm chương” mà đã nhập tâm thành máu thịt. Nhờ đó, anh soi sáng dưới nhiều góc độ khác nhau những vấn đề mà mình quan tâm. Từ đó chiết ra được những ý nghĩa mới, giá trị hình tượng mới thấm đẫm tình yêu và trí tuệ, thành thứ văn chương “tri âm tri kỷ” làm nhiều thế hệ độc giả mê say. Có một độc giả già ở Hà Nội đã tỉ mẩn cắt từng câu của bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ in trên báo Văn nghệ, nối lại thành một bài thơ, ép plactic gửi vào Huế tặng tác giả. Từ những chuyện nhỏ gặp trong những đợt đi chơi lang thang, qua ngòi bút Hoàng Phủ biến thành những vấn đề nhân sinh thấm thía. Trong bài nhàn đàm Đất nước, Tuờng viết về con chim cà ruồng cà tiệc, người Cơ-Tu A Lưới gọi là chim patoong. Tiếng người dân tộc CaTu cà ruồng cà tiệc nghĩa là Đất nước. Tức là con chim đang kêu Đất Nước! Bởi thế mà ở Huế, chim patoong bắt đầu kêu khi vua Duy Tân bị người Pháp đưa đi dày. Người ta nghe tiếng chim kêu thành “Thôi rồi cơ cuộc”… Thôi rồi cơ cuộc”… Cho nên, Hỡi con chim patoong của người lữ hành, sao ta thấy se lòng mỗi lần chim cất tiếng gọi… Bài Con chim bách thanh lại xoáy mũi dùi vào bọn ăn nói như vẹt. Chim bách thanh hót được tiếng của muôn loài, nhưng nó không có tiếng hót riêng của mình: “Hỡi con chim tội nghiệp. Té ra trời sinh ra mi để hót bằng cái lưỡi của E-dốp!”. Nguyễn Trọng Tạo nhiều lần bảo, những điều Tường nói trong các cuộc rượu, nếu ghi âm rồi in ra, sẽ là những bài viết vô cùng thâm thuý, gan ruột. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được Nhà nước tặng Huân Chương Độc Lập( 1998), tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2007), nhưng có lẽ giải thưởng lớn nhất là văn chương của anh nằm trong lòng độc giả cả nước. 

Hoàng Phủ Ngọc Tường tuổi Bính Tý, năm 2009 này anh tròn 72 tuổi, đã vào “tuổi xưa nay hiếm”. Thế mà anh vừa cho ra mắt cuốn bút ký dày có tên “Miền cỏ thơm”, và chuẩn bị cho xuất bản tiếp một tập bút ký nữa, một mảnh vỉa than đá nữa vừa được khai mở…
N.M

(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.