Hoài niệm, mặc cảm và định kiến trong ‘Những thiên đường mù’

09:51 07/04/2016

ĐẶNG ANH ĐÀO

Có thể nói rằng Những thiên đường mù là một câu chuyện dệt bằng những mảnh ký ức trên nền hiện tại.

Ảnh: internet

Chưa hoàn toàn là thời gian đồng hiện - một kỹ thuật du nhập từ phương Tây và sản phẩm của thế kỷ điện ảnh - nhưng kết cấu truyện là sự đan cài, song song của quá khứ và hiện tại, thậm chí hiện tại nhiều khi chỉ là một cái cớ để ký ức tuôn chảy. Nếu tính số lượng trang giấy thì những trang quá khứ dày hơn hiện tại. Cho đến khi với cái chết của người cô (dù người mẹ vẫn còn) thì thật lạ lùng, dĩ vãng đã chấm dứt đối với nhân vật chính: “dĩ vãng chỉ là dĩ vãng”, ký ức của cô gái gặp gỡ hiện tại, và câu chuyện được đóng lại: lần đầu tiên hình ảnh của tương lai xuất hiện với những “giảng đường và phi trường xa xôi” lại cũng chính là lúc kết thúc trang cuối cùng của Những thiên đường mù.

Cả ba người đàn bà án ngữ trong câu chuyện - Hằng nhân vật chính, mẹ Hằng và bà cô tên là Tâm xuất hiện qua lời kể của Hằng - đều mang nặng ký ức. Đối lập lại là một số nhân vật của truyện: mụ Nần, người đàn bà tham ăn khác thường như trong cổ tích và ca dao, hoặc cậu Chính, em trai của mẹ Hằng… Những người này có thể có quá khứ nhưng không có ký ức, hoài niệm: mụ Nần lập tức quên ngay những thứ mụ vừa ăn xong; còn cậu Chính thì dường như chẳng nhớ gì về kinh nghiệm của cải cách ruộng đất khi trở thành thủ trưởng của một cơ quan tuyên huấn ở Hà Nội và để rồi lại quên hết của hai thời kỳ ấy khi thái thịt và “cuốn nem thoăn thoắt”, nấu ăn thuê (?) cho một nhóm thanh niên tại một cái “ốp” nào đó ở Moskva nhân dịp xuất dương du học tận trường AON.

Cũng như tất cả những người đàn bà, điểm sáng quy tụ những nhớ nhung và hoài niệm ở Hằng và bà Quế (mẹ Hằng) cũng như cô Tâm, đó là tình yêu, là hình ảnh một người đàn ông đã tan biến. Và ở đây họ có chung một điểm sáng, dù với mẹ là “một tình yêu không thể đo đếm, không thể tìm kiếm lại”; với Hằng đó là “bố tôi, một tình yêu chưa kịp biết mặt đã chôn vùi trong bùn đất”; và với người cô, đó không chỉ là “niềm trìu mến, tình yêu khắc khoải”, mà là cả một dòng máu, “một phiên bản đã thất lạc”, một quá khứ vĩnh viễn tan biến mà cô đang “xé xác mình ra” để phục hồi lại cho đứa cháu… Cho dù dưới mắt Hằng, đó chỉ là một thiên đường mù, một thiên đường muộn mằn, phung phí.

Trong ba người đàn bà, mẹ của Hằng đã tìm thấy một phần nào quá khứ trong hiện tại, dù không phải là sự tiếp nối hình ảnh người chồng dòng họ Đỗ qua người em trai là cậu Chính và những đứa cháu. Bởi vậy ký ức của bà không dày bằng hai người kia. Còn ký ức của cô Tâm có mỏng hơn Hằng, nhân vật chính đồng thời là người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất - một lợi thế để kể lại ký ức - nhưng ở cô Tâm nó có phần nặng nề hơn, “kỳ bí” và lạnh lẽo hơn. Quả là bên Hằng, đến con chó già cũng “ngửi thấy lờ mờ cái mùi của quá khứ”.

Nhưng ký ức của Hằng không gắn liền với một huyết thống, một ý chí phục thù, mà đó là cả một thế giới phong phú màu sắc, âm điệu, mùi hương của tuổi ấu thơ tràn ngập thi vị quê hương, vả lại không hoàn toàn là quá khứ. Điều lạ lùng là dường như hiện tại lần đầu tiên trông thấy những bông tuyết, một khúc hát của Pugatrova, hoặc một đám đông dân Nga “hàm chứa cái gì đó trì đọng… một thứ an bình của làn nước hồ không gió bão, không luân chuyển”, lại cũng không phải là cái gì hoàn toàn mới mà cũng đang biến thành những ký ức đã gợi lại qua những ao bèo, hay một khúc hát Việt Nam từng làm các cô gái đi lao động ở xứ người gào lên vì thương nhớ. Điều đáng chú ý nữa là khi được gặp lại hình ảnh của quá khứ từng khiến Hằng khắc khoải thì nỗi buồn vẫn không chấm dứt: ở cô không bao giờ đạt tới tình trạng thỏa mãn khi nắm bắt được quá khứ trong hiện thực. Bởi thế, tôi tạm gọi đây là hoài niệm về những thiên đường đã mất, có nghĩa là không hẳn về những gì đã có trong thực tế. Bởi quá khứ ở đây dù có là những mảnh của thiên đường, thì vẫn là thiên đường mù, đó không phải là thiên đường mơ ước. Mọi thứ đều đã thấm thía len lỏi “độc tố của nỗi sầu không thể cắt nghĩa”, của định kiến, trì trệ. Triền sông xưa đã “khắc khoải tiếng kêu của lũ chim di trú bay…”; mùi hoa nhài tỏa hương… bên dòng nước tiểu nồng nặc của đám người say bia; khu vườn của thiên đường tuổi trẻ là một khu đường đầy cỏ, hoang dại; âm điệu đầu tiên vọng vào giấc ngủ đứa bé là tiếng rao hàng ời ợi và câu hát gào lên của một kẻ tàn phế tật nguyền, để trang sức, những bông tai của đứa bé gái lên 10 đã “lạnh lẽo băng giá” như “hoa tàn rải xuống nấm mồ hoang”… Và hoài niệm ám ảnh nhất, than ôi, lại là một ao bèo tím ngát hoa nhưng ngưng đọng, mệt mỏi, một thứ nước “làm chết ngạt dễ dàng những kẻ không biết bơi”. Và “ánh mặt trời chói chang nhất cũng chỉ hâm nóng được làn nước mỏng bên trên”.

Bởi tất cả những gì đã đè nặng lên mình trong quá khứ, nên khi tiếp xúc với một cái gì không giống với thế giới của mình, những mặc cảm xuất hiện ở Hằng. Và không chỉ của riêng Hằng, của riêng những cô gái nghèo, những cánh chim di thực, mà ở đây, ngòi bút của Dương Thu Hương đã điểm được phần nào nét tâm trạng của nhiều người Việt Nam hiện nay. Vốn đã bao năm tưởng mình hơn hẳn về mọi mặt - tâm lý đặc biệt của những người ít được phép tiếp xúc - nay có cơ hội so sánh một trạng thái ngược lại xuất hiện. Mặc cảm từ chiều cao của mình, từ thân hình gầy còm, từ sự nghèo khổ âu lo, tới những “cuộc chia ly nham nhở” ở sân bay Nội Bài… Ôi, nỗi đau của chúng ta! Còn cậu Chính có cái diễm phúc là bao giờ cũng thỏa mãn, gần như không mặc cảm, có lẽ bởi chính điều đó đã nói trên ở cậu, không có nhiều ký ức hoài niệm.

Và trong Những thiên đường mù không phải ít định kiến. Riêng ở đây tôi muốn phân biệt định kiến của nhân vật Hằng với định kiến của Dương Thu Hương. Đành rằng nhà văn có quyền xây dựng những nhân vật đầy định kiến. Đành rằng Hằng có quyền nhìn cậu Chính và cải cách ruộng đất từ góc độ cảm nhận ấy. Vả chăng vấn đề xung đột giữa các thế hệ (đại diện qua cậu Chính và Hằng) là vấn đề nóng hổi hiện nay. Cũng không thể nói mọi sai lầm đã qua đều là tất yếu của lịch sử - nếu vậy thì ta đã chẳng nói đến chuyện “sửa sai” và việc nhìn lại quá khứ sẽ là thừa. Và nếu cứ mỗi người tự thấy mình, đặc biệt là ngành mình, cơ quan mình, thế hệ mình v.v… lại bị chạm nọc mỗi khi gặp phải nhân vật phản diện (tương ứng với các thứ trên) trong tác phẩm thì thật khốn khổ cho nhà văn. Song thật sự là ở tác phẩm này, tôi thấy tác giả có chỗ định kiến, “xâu chuỗi”, đơn giản hóa. Có cái gì đó khiên cưỡng, gò ép trong sự hư cấu, những nhân vật nguyên phiến, một chiều như cậu Chính, mợ Thành và hai nông dân cốt cán nọ. Vô phúc cho những ông già, vô phúc cho những kẻ “đã nghiên cứu xong chủ nghĩa Mác-Lênin”, những kẻ mà vinh quang, quá khứ được tính bằng những chục năm tuổi Đảng: họ không thể có một số phận khá hơn trong tiểu thuyết này! Vô phúc cho những kẻ đã được đội cải cách xâu chuỗi! Nhưng có lẽ định kiến đã không cho phép Dương Thu Hương thấy rằng thực tế, nông dân không phải hoàn toàn bị dắt mũi bởi những con người như cậu Chính, mụ Nần, gã Bích. Tôi nghĩ rằng hiện tượng ấy là sự thể hiện một phần bản thân người nông dân, là cái chất của họ. Mặt khác, trong cuộc đời cũng như trong tác phẩm, dù sao, vẫn có những con người xấu hơn cậu Chính, mợ Thành… nhiều. Cái chính là tôi mong được thấy họ bớt cứng đờ vì phải minh họa cho một ác cảm của nhà văn và mong họ cũng tự nhiên như phía “bên kia” của tác giả (như Lãng Tử, như Hằng, như cô Tâm…).

Cảm giác chung toát lên từ cuốn tiểu thuyết là một tâm hồn cuồng nhiệt, sự nhạy bén với những gì đang diễn ra. Sức hấp dẫn ấy đã biện hộ một phần nào cho những cái vội vã, thiếu thận trọng của Dương Thu Hương.

Định kiến của tác giả có thể khiến hư cấu nên những nhân vật thiếu tự nhiên, nguyên phiến. Song những định kiến của các nhân vật như cô Tâm và nhất là Hằng và một số thanh niên khác của câu chuyện không phải không phản ánh một thực trạng hiện nay. Đặc biệt là những mặc cảm nỗi sầu xứ, hoài niệm về một xứ sở cội nguồn, một thiên đường đã mất (vả chăng đã bao giờ thực sự nó tồn tại?) bàng bạc trong suốt tác phẩm niềm mơ ước về những gì tốt đẹp xứng đáng hơn, đó chính là những nét tâm trạng rất sâu sắc không chỉ của những kẻ tha hương (ở bất kỳ phương trời nào) mà còn của nhiều người dân Việt Nam bình thường hiện nay đang sống trên quê hương mình đột nhiên bừng tỉnh, ý thức lại về mình.

Huế - Hà Nội - Tháng 4 - 1989
Đ.A.Đ
(TCSH39/09&10-1989)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.