Hai xu hướng thơ hiện nay, thử nhìn nhận …

16:30 17/09/2008
NGUYỄN HỮU QUÝ1. Einarokland, nhà thơ Na Uy đã phát biểu tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa, tổ chức ở Vácsava tháng 10 năm 2001 rằng: “Con người, còn ngôn ngữ thì còn thi ca. Thi ca biết tự lo toan cho bản thân mình”.

Đối với Việt ta, một Quốc thi như ai từng gọi, một dân tộc cần cù, gan góc và lãng mạn, thi ca đã đồng hành cùng lịch sử dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm, điều ấy đã được kiểm chứng rõ ràng. Trong giai đoạn lịch sử gần nhất với chúng ta, tính từ cái mốc mùa đông 1946 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được mở đầu bằng tiếng đề pa từ pháo đài Láng đến lá cờ giải phóng phấp phới bay trên nóc Dinh Độc lập cuối tháng 4 năm 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thơ ca đã thể hiện rõ, rất rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thơ gắn bó hữu cơ với đời sống chiến đấu, lao động của dân tộc, của nhân dân và những đỉnh cao thi ca thời ấy đã thuộc về số đông, đã trở thành những sản phẩm tinh thần chung của nhiều người. Nhà thơ tự nguyện đặt lên vai mình trách nhiệm công dân - chiến sĩ và lẽ dĩ nhiên tác phẩm của họ trước hết là những bài ca yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm đánh giặc cao độ. Thời đại là bản anh hùng ca hoành tráng cộng hưởng vào họ, chi phối cả phong cách sáng tạo của người cầm bút một cách ào ạt và sâu sắc, do đó thơ của thế hệ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ (nhất là giai đoạn chống Mỹ) có nhiều điểm chung. Tuy nhiên, cái chung ở đây nên hiểu như là sự hòa đồng về cảm xúc, đề tài, nội dung thể hiện chứ không phải là sự nhạt nhòa về phong cách, sự triệt tiêu cá tính sáng tạo của người cầm bút. Thơ Tố Hữu có nhiều điểm không giống thơ Chính Hữu; Minh Huệ, Hoàng Trung Thông khác Hữu Loan, Hoàng Cầm; Lâm Thị Mỹ Dạ không phải là sự lặp lại của Xuân Quỳnh, Nguyễn Đức Mậu khác Nguyễn Duy; Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo…là những giọng thơ riêng biệt.

2. Sau năm 1975, mà đặc biệt từ khi đất nước đổi mới, thơ Việt bùng phát, mở mang mạnh mẽ. Đó là hệ quả của sự mở cửa, hội nhập với thế giới, khi nền kinh tế thị trường trở thành hiện thực và dần dà định hình rõ hơn ở nước ta, công nghệ “bấm phím nhấn chuột” tinh xảo không còn là sự xa lạ với đông đảo người sáng tác văn chương. Trước đây, in được một tập thơ là chuyện to như trái núi bởi cơ chế bao cấp quá khắt khe trong khâu thẩm duyệt tác phẩm và tiền in sách không phải rút ra từ túi cá nhân. Bây giờ thì khác, trong tay đã sẵn đồng tiền thì việc in thơ của mình trở thành chuyện nhỏ. Số lượng các tập thơ được xuất bản mỗi năm tính đến hàng nghìn. Có vẻ như sáng tác thơ đã trở thành phong trào rộng lớn, khó mà tính hết số người làm thơ ở nước ta hiện nay là bao nhiêu. Người làm thơ là hội viên Hội Nhà văn Việt , hội viên các hội địa phương, hội viên các câu lạc bộ thơ và không thể không tính những người sáng tác chẳng thuộc hội nào cả. Gần đây, người ta nhắc nhiều đến văn học mạng trong đó thơ chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong các trang web, blogs… Người ta không thể không thừa nhận những bài thơ không in lên giấy được tung vào mạng là một phần của đời sống văn chương hôm nay.

Điều đáng nói hơn là người làm thơ hiện nay có nhiều cơ hội, điều kiện để tiếp xúc với nhiều nền thơ, kiểu thơ trên thế giới. Người ta bắt đầu nói đến thơ cách tân, thơ hiện đại và hậu hiện đại như là sự phá vỡ kết cấu của diễn đạt. Nhà thơ Hoàng Hưng đã từng phát biểu: “Thơ hậu hiện đại mang hai đặc điểm nổi bật là tính thử nghiệm và tính tiên phong…Mặc dù rất đa dạng, thơ hậu hiện đại có điểm chung: quan niệm làm thơ là một tiến trình đang xảy ra chứ không phải là sản phẩm đã thành…Nó thích những chữ rỗng hơn là cái thụ nghĩa tiên nghiệm đi theo lý thuyết kết cấu hơn là lý thuyết biểu hiện, quan tâm đến nói như thế nào hơn là nói cái gì…”.
Hiện nay, đội hình những người làm thơ được gọi là cách tân, hiện đại tuy chưa nhiều lắm nhưng lại được hay nhắc tới trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể kể ra đây một ít tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh… và những Lê Đạt, Hoàng Hưng, Hoàng Vũ Thuật… của thế hệ trước.

Theo tôi, chúng ta phải thừa nhận sự cách tân đã mang lại cho nền thơ đương đại ở nước ta những diện mạo, sắc thái khác lạ. Và, hình như nó cũng chỉ mới dừng lại ở sự khác về hình thức thơ mà thôi. Đó chính là sự vượt ra những “khuôn vàng thước ngọc” mang tính truyền thống, ít nhiều là sự cải biến trong kết cấu, bố cục bài thơ và câu thơ, là sự mạnh dạn trong sử dụng ngôn ngữ, là sức liên tưởng rộng và mạnh. Điều này thể hiện khá đậm nét ở những người làm thơ trẻ như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư. Vi Thùy Linh là người làm thơ có nội lực, giàu cảm hứng và sức liên tưởng rộng. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây có vẻ như Linh đã lặp lại mình, đã mòn cũ về đề tài và cách thể hiện; người đọc đã cảm thấy nhọc nhằn khi đọc thơ Linh. Phan Huyền Thư của giai đoạn đầu đằm kín và kiệm lời, biết cân nhắc nhưng hiện nay đang nghiêng theo xu hướng bí ẩn và cầu kỳ. Với Văn Cầm Hải, thực lòng tôi rất thích cách viết bút ký tài hoa của anh nhưng lại không tin lắm vào con đường thơ anh đang đi. Với Nguyễn Hữu Hồng Minh, xin được nói thật từ chỗ cảm tình với “Chất trụ” của bạn, tôi đã thất vọng khi biết Minh là tác giả của bài “Lỗ thủng lịch sử”…

Đôi khi tôi tự hỏi: khi “điệu tâm hồn” mình không hòa nhịp được với đời sống dân tộc thì thơ liệu có cất cánh bay cao, bay xa được không? Đổi mới thơ, phải chăng trước hết phải đổi mới “điệu tâm hồn” mình, phải ý thức rõ rệt rằng: “Một nhà thơ trước hết thuộc về dân tộc, thứ nữa thuộc về thế giới. Tất cả các nhà thơ đều yêu quý Tổ Quốc mình và dân tộc mình. Thơ càng chứa chan tình yêu đất nước bao nhiêu thì càng được các dân tộc trên thế giới đánh giá cao bấy nhiêu” (Lời phát biểu của nhà thơ Lưu Hướng Đông - Trung Quốc- tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa ở Vacsava, tháng 10 năm 2001).
Liệu người làm thơ có tìm được cái đột biến mới mẻ cho thơ ca trong sự xa rời thoát ly đời sống nhân dân và dân tộc. Trong tác phẩm của họ không có hình ảnh và tâm hồn của đất nước đang vượt qua muôn vàn gian khó, trắc trở để đổi mới mà đi lên và hội nhập với nhân loại thì thơ liệu có giành được sự quí trọng, yêu mến của quần chúng hay không? Có cần phải tuyệt đối hóa cái tôi, cái riêng trong thơ như là một cứu cánh của thơ? Có người nói rằng: tôi làm thơ cho tôi, thế là đủ. Kỳ thực, đó là sự ngụy biện vì nếu bạn chỉ làm thơ cho bạn thì bạn không phải tốn tiền in ra hàng nghìn bản làm gì, bạn cũng không phải mất thời gian đọc thơ cho người khác nghe. Suy cho cùng, thì người làm thơ nào cũng mong muốn thơ của mình có nhiều bạn đọc, có nhiều sự đồng cảm chia sẻ. Rasun Gamzatốp đã nói hộ cho chúng ta điều ấy: “Khi tôi viết, tôi là người chủ của những tình cảm của mình, những hình ảnh của mình. Tôi là một cá tính. Trong vấn đề này tôi có năng khiếu sở hữu cá nhân. Nhưng sau khi tôi viết, đọc lại, in lại những điều đó, tôi lại có niềm vui muốn chia sẻ từng dòng với tất cả. Chúng thuộc về  càng nhiều người bao nhiêu thì tôi càng hạnh phúc bấy nhiêu…”.

Đổi mới, cách tân, hiện đại thơ là cần thiết, rất cần thiết nhưng nếu không tỉnh táo nhìn nhận, người viết sẽ ngộ nhận, nhầm lẫn. Người ta có thể nhầm lẫn sự sáng tạo đích thực với sự lắp ghép ngôn ngữ tùy tiện, thô thiển, vô nguyên tắc để tạo ra một mớ bòng bong chữ nghĩa, không thể hiểu nổi. Đổi mới, cách tân, hiện đại không phải là làm phức tạp hóa, rối ren hóa, tù mù hóa những điều giản dị, là tước bỏ hoặc xem nhẹ cái qui luật cảm xúc của thơ. Cảm xúc là sự khởi đầu, sự đồng hành và gặt hái của thơ. Nếu thơ chỉ là sự kết cấu ngôn ngữ đơn thuần thì có lẽ các nhà thơ nên rút lui khỏi vị trí của mình và thay thế vào đó những rô bốt làm thơ.

3. Ở nước ta hiện nay có một xu hướng thơ khác: lặng lẽ cách tân đổi mới trên nền thơ truyền thống. Xu hướng này, tuy đội ngũ đông đảo hơn, có thành tựu nhưng hình như ít được chú ý. Nhiều người lầm tưởng họ chưa thoát ra khỏi trường thơ chống Mỹ, họ là những “nhà thơ lưu ban” trong thế kỷ mới. Đề cập đến những người làm thơ theo xu hướng này, nhà thơ Trần Anh Thái cho rằng họ đã “bám riết vào hành trình thơ dân tộc tìm tòi bằng cách khai thác triệt để các chất liệu ngôn ngữ đời sống, đi đến cùng những gì mình có, phản ánh cái bề bộn ngổn ngang của hiện thực”. Đội ngũ ấy dễ dàng kể ra được không ít tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc như Ngô Minh, Nguyễn Việt Chiến, Đồng Đức Bốn, Lê Mạnh Tuấn, Trương Nam Hương, Irasara, Thu Nguyệt, Nguyễn Thanh Mừng, Trần Anh Thái, Trần Quang Đạo, Tuyết Nga, Trần Kim Hoa, Đỗ Trọng Khơi, Văn Công Hùng, Hồng Thanh Quang, Lương Ngọc An, Đặng Huy Giang, Nguyễn Lương Ngọc, Đoàn Mạnh Phương, Trần Thị Huyền Trang, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Nguyễn Khắc Thạch, Lê Minh Quốc,… và trẻ hơn có Trương Quế Chi, Phạm Vân Anh, Hải Thanh, Lê Vĩnh Tài… Cũng viết về chiến tranh và người lính nhưng Trần Anh Thái, Hồng Thanh Quang, Lê Minh Quốc, Lê Mạnh Tuấn, Lương Ngọc An… khác với Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh…, thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, Nguyễn Thanh Mừng, Thu Nguyệt… khác với thơ lục bát của Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh… về góc nhìn, bố cục, sử dụng ngôn ngữ. Có những bài thơ của Ngô Minh, Nguyễn Khắc Thạch, Trần Quang Đạo, Tuyết Nga, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Đặng Huy Giang, Nguyễn Lương Ngọc, Văn Công Hùng, Irasara… đọc lên rất quen thuộc nhưng vẫn mới mẻ, ấn tượng. Trong cảm nhận của tôi, ở họ, thơ là sự giải bày tâm hồn, tình cảm của mình trước hiện thực cuộc sống bề bộn chứa đầy những xung đột lớn nhỏ. Nhà thơ đắm mình trong cuộc sống và từ sự chiêm nghiệm về nhân tình thế thái họ viết như sự hướng tới cái ấm áp, cởi mở của cuộc đời. Phần đông họ thích sự thể hiện giản dị, không cầu kỳ bí hiểm; có vẻ như duy tình hơn duy lý nên người ta thấy nó quen thuộc quá chăng. Tôi thấy thơ họ không cũ kỹ như ai đó từng nói. Cái mới vừa có trong nội dung vừa được thể hiện qua hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ. Những người làm thơ theo hướng cách tân truyền thống không chọn sự khó hiểu làm mục đích, không đặt nội dung thấp hơn hình thức, không quay lưng lại với thơ truyền thống, trái lại họ chọn lựa cái đẹp cái hay của nó để chuyển tải cảm xúc, suy nghĩ của mình trước hiện thực muôn hình, muôn vẻ của cuộc sống. Quá trình sáng tạo là quá trình khai thác triệt để chất truyền thống của thơ Việt đồng thời tìm tòi, suy ngẫm làm mới nó lên… Tuy nhiên, trong hành trình thơ đó không phải ai cũng thành công và sự dễ dãi, sáo mòn, lặp lại vẫn tồn tại.

4. Trước thực tế nền thơ Việt hiện nay có hai xu hướng chủ yếu như thế ta nên đối xử công bằng với nó. Viết hiện đại hay viết truyền thống là quyền của người làm thơ, ta nên trân trọng cả hai. Kiểu viết nào cũng phải hướng tới cái đích tối thượng của thơ là HAY. Viết theo kiểu truyền thống mà hay và ấn tượng chắc chắn có giá trị hơn kiểu viết hiện đại mà dở. Viết hiện đại - mới lạ mà hay chính là điều mong ước của nhiều người. Cái hay đâu thể làm giả được, càng không phải nhờ vào sự lăng xê, đôn đẩy, tô quét của ai đó. Cái hay chỉ có ở trong bài thơ. Tuy nhiên, viết theo kiểu nào cũng cần sự mới. Đó là yêu cầu của sáng tạo văn chương. Nhà thơ đích thực nào cũng mang trong mình phẩm chất sáng tạo. Sự sáng tạo ấy ở người này đang độ thăng hoa, ở người khác đang ở kỳ trầm ẩn. Vì thế mà ta có quyền hy vọng. Hy vọng vào sự phát tiết của nhà thơ, hy vọng vào những người làm thơ trẻ sẽ biết giữ gìn và cách tân nền thơ truyền thống của cha anh đã được chọn lọc tích lũy hàng nghìn năm cũng đồng thời biết tiếp thu những tinh hoa của thơ nhân loại. Mọi xu hướng của thơ đều đòi hỏi ở người cầm bút sự tìm tòi kiên nhẫn, lao tâm khổ tứ. Người làm thơ không ai là không hiểu  viết được một câu thơ hay, một bài thơ hay là khó muôn vàn. Trời không cho thì đố ai làm được. Càng muôn vàn khó khăn và thực tế chẳng mấy ai được trở thành nhà thơ lớn. Mấy nghìn năm thăng trầm biến động Việt mới có được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đứng ngang tầm nhân loại. Bởi vậy, dẫu bây giờ đã viết được cái gì đó cũng chớ vội cho mình đã trở thành khổng lồ, là số 1, là ngọn đèn tỏa sáng.

Dẫu sao, thơ vẫn là thơ; cuộc sống sinh ra nó và nó lại tìm về với cuộc sống bằng những lối riêng, không giống nhau. Để có một nền thơ thuần hậu, nhân văn, trong sáng và đa dạng cần đối xử công bằng với mọi nhà thơ. Đừng vì nhân danh đổi mới, hiện đại hay truyền thống mà bên trọng, bên khinh. Hãy để cho những khuynh hướng thơ được bình đẳng tồn tại với nhau, đừng dạy dỗ, đừng áp đặt, đừng khắt khe và cũng đừng ôm ấp chiều chuộng thái quá ai cả. Tự thơ nói lên tất cả. Tự bạn đọc bầu chọn nhà thơ của họ. Tự cuộc sống lâu dài định danh cho thơ. Tóm lại, cứ để cho nó phát triển tự nhiên vì nó là thơ.
                                                N.H.Q

(nguồn: TCSH số 226 - 12 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!