Hai xu hướng thơ hiện nay, thử nhìn nhận …

16:30 17/09/2008
NGUYỄN HỮU QUÝ1. Einarokland, nhà thơ Na Uy đã phát biểu tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa, tổ chức ở Vácsava tháng 10 năm 2001 rằng: “Con người, còn ngôn ngữ thì còn thi ca. Thi ca biết tự lo toan cho bản thân mình”.

Đối với Việt ta, một Quốc thi như ai từng gọi, một dân tộc cần cù, gan góc và lãng mạn, thi ca đã đồng hành cùng lịch sử dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm, điều ấy đã được kiểm chứng rõ ràng. Trong giai đoạn lịch sử gần nhất với chúng ta, tính từ cái mốc mùa đông 1946 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được mở đầu bằng tiếng đề pa từ pháo đài Láng đến lá cờ giải phóng phấp phới bay trên nóc Dinh Độc lập cuối tháng 4 năm 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thơ ca đã thể hiện rõ, rất rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thơ gắn bó hữu cơ với đời sống chiến đấu, lao động của dân tộc, của nhân dân và những đỉnh cao thi ca thời ấy đã thuộc về số đông, đã trở thành những sản phẩm tinh thần chung của nhiều người. Nhà thơ tự nguyện đặt lên vai mình trách nhiệm công dân - chiến sĩ và lẽ dĩ nhiên tác phẩm của họ trước hết là những bài ca yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm đánh giặc cao độ. Thời đại là bản anh hùng ca hoành tráng cộng hưởng vào họ, chi phối cả phong cách sáng tạo của người cầm bút một cách ào ạt và sâu sắc, do đó thơ của thế hệ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ (nhất là giai đoạn chống Mỹ) có nhiều điểm chung. Tuy nhiên, cái chung ở đây nên hiểu như là sự hòa đồng về cảm xúc, đề tài, nội dung thể hiện chứ không phải là sự nhạt nhòa về phong cách, sự triệt tiêu cá tính sáng tạo của người cầm bút. Thơ Tố Hữu có nhiều điểm không giống thơ Chính Hữu; Minh Huệ, Hoàng Trung Thông khác Hữu Loan, Hoàng Cầm; Lâm Thị Mỹ Dạ không phải là sự lặp lại của Xuân Quỳnh, Nguyễn Đức Mậu khác Nguyễn Duy; Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo…là những giọng thơ riêng biệt.

2. Sau năm 1975, mà đặc biệt từ khi đất nước đổi mới, thơ Việt bùng phát, mở mang mạnh mẽ. Đó là hệ quả của sự mở cửa, hội nhập với thế giới, khi nền kinh tế thị trường trở thành hiện thực và dần dà định hình rõ hơn ở nước ta, công nghệ “bấm phím nhấn chuột” tinh xảo không còn là sự xa lạ với đông đảo người sáng tác văn chương. Trước đây, in được một tập thơ là chuyện to như trái núi bởi cơ chế bao cấp quá khắt khe trong khâu thẩm duyệt tác phẩm và tiền in sách không phải rút ra từ túi cá nhân. Bây giờ thì khác, trong tay đã sẵn đồng tiền thì việc in thơ của mình trở thành chuyện nhỏ. Số lượng các tập thơ được xuất bản mỗi năm tính đến hàng nghìn. Có vẻ như sáng tác thơ đã trở thành phong trào rộng lớn, khó mà tính hết số người làm thơ ở nước ta hiện nay là bao nhiêu. Người làm thơ là hội viên Hội Nhà văn Việt , hội viên các hội địa phương, hội viên các câu lạc bộ thơ và không thể không tính những người sáng tác chẳng thuộc hội nào cả. Gần đây, người ta nhắc nhiều đến văn học mạng trong đó thơ chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong các trang web, blogs… Người ta không thể không thừa nhận những bài thơ không in lên giấy được tung vào mạng là một phần của đời sống văn chương hôm nay.

Điều đáng nói hơn là người làm thơ hiện nay có nhiều cơ hội, điều kiện để tiếp xúc với nhiều nền thơ, kiểu thơ trên thế giới. Người ta bắt đầu nói đến thơ cách tân, thơ hiện đại và hậu hiện đại như là sự phá vỡ kết cấu của diễn đạt. Nhà thơ Hoàng Hưng đã từng phát biểu: “Thơ hậu hiện đại mang hai đặc điểm nổi bật là tính thử nghiệm và tính tiên phong…Mặc dù rất đa dạng, thơ hậu hiện đại có điểm chung: quan niệm làm thơ là một tiến trình đang xảy ra chứ không phải là sản phẩm đã thành…Nó thích những chữ rỗng hơn là cái thụ nghĩa tiên nghiệm đi theo lý thuyết kết cấu hơn là lý thuyết biểu hiện, quan tâm đến nói như thế nào hơn là nói cái gì…”.
Hiện nay, đội hình những người làm thơ được gọi là cách tân, hiện đại tuy chưa nhiều lắm nhưng lại được hay nhắc tới trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể kể ra đây một ít tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh… và những Lê Đạt, Hoàng Hưng, Hoàng Vũ Thuật… của thế hệ trước.

Theo tôi, chúng ta phải thừa nhận sự cách tân đã mang lại cho nền thơ đương đại ở nước ta những diện mạo, sắc thái khác lạ. Và, hình như nó cũng chỉ mới dừng lại ở sự khác về hình thức thơ mà thôi. Đó chính là sự vượt ra những “khuôn vàng thước ngọc” mang tính truyền thống, ít nhiều là sự cải biến trong kết cấu, bố cục bài thơ và câu thơ, là sự mạnh dạn trong sử dụng ngôn ngữ, là sức liên tưởng rộng và mạnh. Điều này thể hiện khá đậm nét ở những người làm thơ trẻ như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư. Vi Thùy Linh là người làm thơ có nội lực, giàu cảm hứng và sức liên tưởng rộng. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây có vẻ như Linh đã lặp lại mình, đã mòn cũ về đề tài và cách thể hiện; người đọc đã cảm thấy nhọc nhằn khi đọc thơ Linh. Phan Huyền Thư của giai đoạn đầu đằm kín và kiệm lời, biết cân nhắc nhưng hiện nay đang nghiêng theo xu hướng bí ẩn và cầu kỳ. Với Văn Cầm Hải, thực lòng tôi rất thích cách viết bút ký tài hoa của anh nhưng lại không tin lắm vào con đường thơ anh đang đi. Với Nguyễn Hữu Hồng Minh, xin được nói thật từ chỗ cảm tình với “Chất trụ” của bạn, tôi đã thất vọng khi biết Minh là tác giả của bài “Lỗ thủng lịch sử”…

Đôi khi tôi tự hỏi: khi “điệu tâm hồn” mình không hòa nhịp được với đời sống dân tộc thì thơ liệu có cất cánh bay cao, bay xa được không? Đổi mới thơ, phải chăng trước hết phải đổi mới “điệu tâm hồn” mình, phải ý thức rõ rệt rằng: “Một nhà thơ trước hết thuộc về dân tộc, thứ nữa thuộc về thế giới. Tất cả các nhà thơ đều yêu quý Tổ Quốc mình và dân tộc mình. Thơ càng chứa chan tình yêu đất nước bao nhiêu thì càng được các dân tộc trên thế giới đánh giá cao bấy nhiêu” (Lời phát biểu của nhà thơ Lưu Hướng Đông - Trung Quốc- tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa ở Vacsava, tháng 10 năm 2001).
Liệu người làm thơ có tìm được cái đột biến mới mẻ cho thơ ca trong sự xa rời thoát ly đời sống nhân dân và dân tộc. Trong tác phẩm của họ không có hình ảnh và tâm hồn của đất nước đang vượt qua muôn vàn gian khó, trắc trở để đổi mới mà đi lên và hội nhập với nhân loại thì thơ liệu có giành được sự quí trọng, yêu mến của quần chúng hay không? Có cần phải tuyệt đối hóa cái tôi, cái riêng trong thơ như là một cứu cánh của thơ? Có người nói rằng: tôi làm thơ cho tôi, thế là đủ. Kỳ thực, đó là sự ngụy biện vì nếu bạn chỉ làm thơ cho bạn thì bạn không phải tốn tiền in ra hàng nghìn bản làm gì, bạn cũng không phải mất thời gian đọc thơ cho người khác nghe. Suy cho cùng, thì người làm thơ nào cũng mong muốn thơ của mình có nhiều bạn đọc, có nhiều sự đồng cảm chia sẻ. Rasun Gamzatốp đã nói hộ cho chúng ta điều ấy: “Khi tôi viết, tôi là người chủ của những tình cảm của mình, những hình ảnh của mình. Tôi là một cá tính. Trong vấn đề này tôi có năng khiếu sở hữu cá nhân. Nhưng sau khi tôi viết, đọc lại, in lại những điều đó, tôi lại có niềm vui muốn chia sẻ từng dòng với tất cả. Chúng thuộc về  càng nhiều người bao nhiêu thì tôi càng hạnh phúc bấy nhiêu…”.

Đổi mới, cách tân, hiện đại thơ là cần thiết, rất cần thiết nhưng nếu không tỉnh táo nhìn nhận, người viết sẽ ngộ nhận, nhầm lẫn. Người ta có thể nhầm lẫn sự sáng tạo đích thực với sự lắp ghép ngôn ngữ tùy tiện, thô thiển, vô nguyên tắc để tạo ra một mớ bòng bong chữ nghĩa, không thể hiểu nổi. Đổi mới, cách tân, hiện đại không phải là làm phức tạp hóa, rối ren hóa, tù mù hóa những điều giản dị, là tước bỏ hoặc xem nhẹ cái qui luật cảm xúc của thơ. Cảm xúc là sự khởi đầu, sự đồng hành và gặt hái của thơ. Nếu thơ chỉ là sự kết cấu ngôn ngữ đơn thuần thì có lẽ các nhà thơ nên rút lui khỏi vị trí của mình và thay thế vào đó những rô bốt làm thơ.

3. Ở nước ta hiện nay có một xu hướng thơ khác: lặng lẽ cách tân đổi mới trên nền thơ truyền thống. Xu hướng này, tuy đội ngũ đông đảo hơn, có thành tựu nhưng hình như ít được chú ý. Nhiều người lầm tưởng họ chưa thoát ra khỏi trường thơ chống Mỹ, họ là những “nhà thơ lưu ban” trong thế kỷ mới. Đề cập đến những người làm thơ theo xu hướng này, nhà thơ Trần Anh Thái cho rằng họ đã “bám riết vào hành trình thơ dân tộc tìm tòi bằng cách khai thác triệt để các chất liệu ngôn ngữ đời sống, đi đến cùng những gì mình có, phản ánh cái bề bộn ngổn ngang của hiện thực”. Đội ngũ ấy dễ dàng kể ra được không ít tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc như Ngô Minh, Nguyễn Việt Chiến, Đồng Đức Bốn, Lê Mạnh Tuấn, Trương Nam Hương, Irasara, Thu Nguyệt, Nguyễn Thanh Mừng, Trần Anh Thái, Trần Quang Đạo, Tuyết Nga, Trần Kim Hoa, Đỗ Trọng Khơi, Văn Công Hùng, Hồng Thanh Quang, Lương Ngọc An, Đặng Huy Giang, Nguyễn Lương Ngọc, Đoàn Mạnh Phương, Trần Thị Huyền Trang, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Nguyễn Khắc Thạch, Lê Minh Quốc,… và trẻ hơn có Trương Quế Chi, Phạm Vân Anh, Hải Thanh, Lê Vĩnh Tài… Cũng viết về chiến tranh và người lính nhưng Trần Anh Thái, Hồng Thanh Quang, Lê Minh Quốc, Lê Mạnh Tuấn, Lương Ngọc An… khác với Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh…, thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, Nguyễn Thanh Mừng, Thu Nguyệt… khác với thơ lục bát của Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh… về góc nhìn, bố cục, sử dụng ngôn ngữ. Có những bài thơ của Ngô Minh, Nguyễn Khắc Thạch, Trần Quang Đạo, Tuyết Nga, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Đặng Huy Giang, Nguyễn Lương Ngọc, Văn Công Hùng, Irasara… đọc lên rất quen thuộc nhưng vẫn mới mẻ, ấn tượng. Trong cảm nhận của tôi, ở họ, thơ là sự giải bày tâm hồn, tình cảm của mình trước hiện thực cuộc sống bề bộn chứa đầy những xung đột lớn nhỏ. Nhà thơ đắm mình trong cuộc sống và từ sự chiêm nghiệm về nhân tình thế thái họ viết như sự hướng tới cái ấm áp, cởi mở của cuộc đời. Phần đông họ thích sự thể hiện giản dị, không cầu kỳ bí hiểm; có vẻ như duy tình hơn duy lý nên người ta thấy nó quen thuộc quá chăng. Tôi thấy thơ họ không cũ kỹ như ai đó từng nói. Cái mới vừa có trong nội dung vừa được thể hiện qua hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ. Những người làm thơ theo hướng cách tân truyền thống không chọn sự khó hiểu làm mục đích, không đặt nội dung thấp hơn hình thức, không quay lưng lại với thơ truyền thống, trái lại họ chọn lựa cái đẹp cái hay của nó để chuyển tải cảm xúc, suy nghĩ của mình trước hiện thực muôn hình, muôn vẻ của cuộc sống. Quá trình sáng tạo là quá trình khai thác triệt để chất truyền thống của thơ Việt đồng thời tìm tòi, suy ngẫm làm mới nó lên… Tuy nhiên, trong hành trình thơ đó không phải ai cũng thành công và sự dễ dãi, sáo mòn, lặp lại vẫn tồn tại.

4. Trước thực tế nền thơ Việt hiện nay có hai xu hướng chủ yếu như thế ta nên đối xử công bằng với nó. Viết hiện đại hay viết truyền thống là quyền của người làm thơ, ta nên trân trọng cả hai. Kiểu viết nào cũng phải hướng tới cái đích tối thượng của thơ là HAY. Viết theo kiểu truyền thống mà hay và ấn tượng chắc chắn có giá trị hơn kiểu viết hiện đại mà dở. Viết hiện đại - mới lạ mà hay chính là điều mong ước của nhiều người. Cái hay đâu thể làm giả được, càng không phải nhờ vào sự lăng xê, đôn đẩy, tô quét của ai đó. Cái hay chỉ có ở trong bài thơ. Tuy nhiên, viết theo kiểu nào cũng cần sự mới. Đó là yêu cầu của sáng tạo văn chương. Nhà thơ đích thực nào cũng mang trong mình phẩm chất sáng tạo. Sự sáng tạo ấy ở người này đang độ thăng hoa, ở người khác đang ở kỳ trầm ẩn. Vì thế mà ta có quyền hy vọng. Hy vọng vào sự phát tiết của nhà thơ, hy vọng vào những người làm thơ trẻ sẽ biết giữ gìn và cách tân nền thơ truyền thống của cha anh đã được chọn lọc tích lũy hàng nghìn năm cũng đồng thời biết tiếp thu những tinh hoa của thơ nhân loại. Mọi xu hướng của thơ đều đòi hỏi ở người cầm bút sự tìm tòi kiên nhẫn, lao tâm khổ tứ. Người làm thơ không ai là không hiểu  viết được một câu thơ hay, một bài thơ hay là khó muôn vàn. Trời không cho thì đố ai làm được. Càng muôn vàn khó khăn và thực tế chẳng mấy ai được trở thành nhà thơ lớn. Mấy nghìn năm thăng trầm biến động Việt mới có được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đứng ngang tầm nhân loại. Bởi vậy, dẫu bây giờ đã viết được cái gì đó cũng chớ vội cho mình đã trở thành khổng lồ, là số 1, là ngọn đèn tỏa sáng.

Dẫu sao, thơ vẫn là thơ; cuộc sống sinh ra nó và nó lại tìm về với cuộc sống bằng những lối riêng, không giống nhau. Để có một nền thơ thuần hậu, nhân văn, trong sáng và đa dạng cần đối xử công bằng với mọi nhà thơ. Đừng vì nhân danh đổi mới, hiện đại hay truyền thống mà bên trọng, bên khinh. Hãy để cho những khuynh hướng thơ được bình đẳng tồn tại với nhau, đừng dạy dỗ, đừng áp đặt, đừng khắt khe và cũng đừng ôm ấp chiều chuộng thái quá ai cả. Tự thơ nói lên tất cả. Tự bạn đọc bầu chọn nhà thơ của họ. Tự cuộc sống lâu dài định danh cho thơ. Tóm lại, cứ để cho nó phát triển tự nhiên vì nó là thơ.
                                                N.H.Q

(nguồn: TCSH số 226 - 12 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.