Hai thái sư Lê Văn Thịnh: một nghịch thần, một danh nhân (hay là nỗi oan khuất của Thái sư Lê Văn thịnh)

09:35 06/01/2010
LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

Tượng Thái sư Lê Văn Thịnh trong đền thờ tại xã Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc - Ảnh: wikipedia

Vở đầu tiên là Lý Thánh Tông chọn người tài, dựng năm 1979, được giải thưởng loại A tại liên hoan phim vô tuyến truyền hình toàn quốc năm 1983. Vở tiếp là Ỷ Lan coi việc nước, dựng năm 1980 và được huy chương vàng tại hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc ngay trong năm đó. Vở cuối cùng là Lý Nhân Tông học làm vua, dựng năm 1982, đạt huy chương vàng tại hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985 với số điểm toàn phiếu tuyệt đối, gọi nôm na là “vàng mười”.

Ba vở diễn này đã đưa Tào Mạt lên hàng đầu những nhà viết chèo nổi nhất trong những năm ấy. Mười lăm năm nay chúng được trình diễn nhiều lần và được chiếu đi chiếu lại rất nhiều lần trên vô tuyến.

Vở thứ ba là nổi tiếng nhất, là cao trào của toàn bộ ba chèo lịch sử này. Theo lẽ thường mỗi vở đều có vài trung và nịnh; trong vở này, vai nịnh điển hình nhất và cũng là đạt nhất là Thái sư Lê Văn thịnh. Ngày nay công chúng đã quá quen với một nghịch thần Lê Văn Thịnh, kẻ đã đang tâm cho chôn sống ông Hề già, rồi trở mặt giết cả nhà bốn tên thủ hạ để bịt miệng người đời, hòng xóa hết tang tích của kẻ thủ mưu; lại cho thủ hạ là người Đại Lý sắp sẵn cả một đội quân mang lốt cọp để làm việc phản nghịch; cuối cùng chính Lê Văn Thịnh đã đích thân đội lốt cọp toan vồ vua trên hồ Mù Sương (Dâm Đàm - Hồ Tây). Khỏi phải kể lại chi tiết bởi công chúng đã quá quen với nhân vật này. Phải thừa nhận rằng Tào Mạt đã rất “thành công” trong việc xây dựng nhân vật này; thật xứng với giải “vàng mười” - một trường hợp hy hữu trong các hội diễn văn hoá nghệ thuật.

Ta biết đây là vở chèo lịch sử, nghĩa là lấy đề tài từ lịch sử. Vậy, chúng ta hãy thử xem sử sách cổ viết gì?

Sử sách đều ghi Lê Văn Thịnh là Tiến sĩ khai khoa - vị Tiến sĩ đầu tiên của nền khoa cử Việt Nam, là thầy học của vua Lý Nhân Tông, 12 năm là quan đứng đầu triều đình với chức Thái sư, từng đi đàm phán về biên giới với người Tống và giành được thắng lợi trong việc đòi lại một vạt đất ở biên giới. Chỉ có một chi tiết để gợi ý Tào Mạt xây dựng nhân vật này thành nhân vật phản diện; đó là câu chuyện “hóa hổ” mà Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) đã viết:

“Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao giang. Bấy giờ vua ngự ra hồ Dâm Đàn, đi chiếc thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt đi, nói rằng: nguy lắm rồi! Người đánh cá là Mục Thận quăng cái lưới trùm lên trên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh… Trước đây Văn Thịnh có gia nô người Đại Lý có pháp thuật kỳ dị, cho nên làm ra như thế để định cướp ngôi giết vua.”

Có lẽ Toàn thư đã căn cứ vào Việt điện u linh - một tập truyện huyền thoại để viết đoạn sử này.

Và đây là những dòng được viết trong Việt điện u linh:

“Trong thời vua Lý Nhân Tông, quan thái sư Lê Văn thịnh, nuôi được một tên gia nô người Đại Lý có thuật lạ: đọc thần chú xong, biến hình thành hổ báo, Văn Thịnh cố dỗ để dạy mình thuật ấy, học được thuật rồi, liền lập mưu giết tên gia nô và định dùng thuật hại vua để cướp ngôi.

Bấy giờ vua Nhân Tông ngự ra Hồ Tây xem đánh cá, thuyền vua đang bơi trong hồ, bỗng thấy mây mù nổi lên phủ kín, rồi nghe có tiếng mái chèo tới gần, trong mây mù trông thấy có con hổ nhe răng, giương vuốt chực hại người. Nhân Tông hoảng sợ bối rối. Lúc đó, Mục Công ngồi thuyền đánh cá ở gần, nhìn kỹ thấy thế, nói: “việc gấp lắm rồi”, liền quăng lưới chụp vào thuyền kia, bắt được con hổ và nhận ra là Lê Văn Thịnh”.

Trong khi đó Việt sử lược (một bộ sử của nước ta được viết vào cuối đời Trần, nhưng không còn lưu giữ được ở trong nước, mãi về sau mới được in vào Tứ khố toàn thư đời Thanh) lại viết khác, không có câu chuyện hoang đường là Lê Văn Thịnh hóa hổ:

“Lúc bấy giờ, vua ngự chiếc thuyền nhỏ, thị vệ rất ít. Thái sư Lê Văn Thịnh từ lâu đã chất chứa mưu gian, nhân đó dùng ảo thuật làm thành khói mù lớn. Ở giữa hồ đang ban ngày, trời tối sầm lại. Bỗng chốc vua nghe thấy tiếng mái chèo lại gần, vua nghĩ chắc có biến bèn lấy giáo phóng ra. Khói mù theo giáo mà tan đi. Thấy thuyền của Văn Thịnh đã sát tới, có sẵn đồ hung khí, vua sai người bắt. Vua xuống chiếu đày Văn Thịnh đi Lương - giang - đầu. Xưa nhà Văn Thịnh có một đầy tớ (gia nô), người Đại Lý, giỏi về ảo thuật. Văn Thịnh học phép của nó, đến lúc này bèn phản.”

Vụ án Lê Văn Thịnh xẩy ra vào năm 1096. Hai, ba trăm năm sau thì vụ án đó đã đi vào quên lãng và đã biến thành một câu chuyện hoang đường. Nếu vụ án đó không có gì mờ ám, thì nó đã được ghi lại tỏ tường, và làm sao lại có được câu chuyện linh dị ấy. Cuốn Việt điện u linh được hoàn tất vào năm 1329. Người viết cuốn sách đó vốn không phải là nhằm ghi những chuyện có thật, chỉ muốn chép những câu chuyện thần thánh linh thiêng, mà trong câu chuyện này chủ yếu muốn tán dương công tích vị thần hoàng ở xã Trích Sài là Mục Thận. Và như thế Lê Văn Thịnh chỉ là một “vật tế thần” mà thôi. Nói về một kẻ bề tôi có tội trong câu chuyện thần hoàng này như thế nào mà chả được.

Đến khi người viết Việt sử lược (hoàn thành sau năm 1377) tham khảo chuyện ấy đã thấy là kinh dị mà lược bớt việc Lê Văn Thịnh hóa hổ, chỉ giữ lại chuyện ông học được thuật làm ra khói mù. Đáng tiếc là Việt sử lược bị thất lạc, không còn ở trong nước để những người làm Toàn thư tham chiếu. Thế là Toàn thư cứ theo Việt điện u linh. Dù sao một cuốn sử như Toàn thư mà chép như vậy cũng là khó lý giải. Tất nhiên, tình cảnh như trên, thì đến năm 1697, các sử quan nhà Lê không có tư liệu gì hơn để lý giải cho thỏa đáng việc Thái sư Lê Văn Thịnh bị giáng chức, họ đã chép lại truyền thuyết. Kể ra sử học mà lấy truyện huyền hoặc làm căn cứ thì thật sai lầm về phương pháp. Nhưng, chắc gì họ đã thật tin vào câu chuyện hoang đường đó. Tuy vậy, cứ chép để mà chép, cốt là ghi lại một sự kiện, mặc cho người đời sau chẳng thể lấy đó làm tin. Không tin được thì phải suy ngẫm mà tự hiểu lấy.

Ta biết, thời xưa “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Vậy là, trái lệnh vua là sai, là có tội; không vừa ý vua là có họa. Trong dằng dặc năm tháng của lịch sử có biết bao nhiêu thảm án, có biết bao nhiêu điều oan khốc. Thời đầu Lê sơ, có nhiều công thần bị giết oan mà sử sách còn ghi lại được, như Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi. Thời nhà Nguyễn cũng có nhiều đại thần bị giết hoặc tru di tam tộc. Việc tranh đoạt quyền hành, giành giật ngôi thứ hoặc bảo vệ hay cướp ngôi vua cũng thường mang lại cái chết. “Được làm vua, thua làm giặc” là lẽ thường. Nguyễn Bặc, Đinh Điền vì bảo vệ nhà Đinh nên bị Lê Hoàn giết cũng vì lẽ ấy; vậy mà sử cũ chỉ ghi lại lời Lê Hoàn kể tội Nguyễn Bặc. Toàn thư còn có ghi lại lời phê của sử thần Ngô Sĩ Liên đối với cách ghi sử đó: “Khi Bặc chết, tất có nói một lời để tỏ chính nghĩa, sử không thấy chép, thế là bỏ sót”. Có lẽ chỉ có mình Nguyễn Trãi là sau còn được vua Lê Thánh Tông giải oan cho, mà đó là vì lẽ: trước đây mẹ của vua Lê Thánh Tông khi mang thai ông đã từng được Nguyễn Trãi cứu giúp. Việc minh oan ấy cũng chỉ được Toàn thư nhắc lại sơ sài qua việc: “cho Anh Vũ là con của Nguyễn Trãi làm huyện chức”.

Theo đó mà suy, nhiều người cho rằng Lê Văn Thịnh bị kết án oan, rồi bị đời sau thêu dệt thêm thành trọng tội, chỉ có điều ông không được một minh quân nào giải oan cho. Với cách xử lý: cho “an trí ở Thao Giang”, ta có thể đoán rằng: “tội” của Lê Văn Thịnh không nặng lắm.

Xin bàn sâu thêm một chút. Câu chuyện “thâm cung bí sử” này đã qua lâu lắm rồi, bây giờ thật sự không còn có bằng chứng nào để mà khảo cứu, để mà tìm cách minh oan cho ông. Tuy vậy bằng một trực giác cảm tính, chúng ta không thể tin rằng đó là một câu chuyện có thật. Chúng ta không thể tin rằng có ai đó có pháp thuật bằng mấy câu chú mà hóa thành hổ được; thuật đó lại có thể dễ dàng truyền cho người khác. Còn như nếu cứ theo lôgic của các câu chuyện hoang đường thì phải có một câu chú khác để giải, tức là một câu chú đọc lên để con hổ đó lại hóa thành người. Ông già câu cá Mục Thận tất cũng phải có pháp thuật, chứ là người thường với cái lưới đánh cá thì sao mà chụp được hổ, lại còn hóa nó trở thành Lê Văn Thịnh. Nếu hóa được thành hổ mà “võ công” tầm thường như con hổ Lê Văn Thịnh thì hóa phép mà làm gì. Chắc Tào Mạt cũng nhận thấy cấu trúc lỏng lẻo của câu chuyện hoang đường kia, nên đã cải biến đi, cho Lê Văn Thịnh đội lốt hổ. nếu việc tiếp cận vua dễ dàng như trong câu chuyện này, thì đội lốt hổ mà làm gì cho vướng víu, chỉ cần bắn một phát tên là xong. Một văn quan đại thần đứng đầu văn võ bá quan như Thái sư Lê Văn Thịnh không thể nào chọn một phương sách giết hại vua bằng cách tự mình làm một “thích khách” như vậy. Lê Văn Thịnh phải tính toán, sau khi “vồ” vua, ông ta cần phải “giấu mặt” đi để còn có thể lên làm vua được. Tào Mạt thật khéo dựng chuyện hơn người xưa, ông cho Lê Văn Thịnh sai 4 tên gia nô đi giết ông Hề già, rồi giết cả gia đình bốn tên đó để bịt chứng tích. Cái mẹo “ném đá giấu tay” ấy mới là cao, sao “Lê Văn Thịnh thật” thuở xưa lại chẳng nghĩ ra kế đó để dùng vào “việc lớn”, phải để đến Tào Mạt mới nghĩ ra và cho phép ông dùng vào một việc chẳng đáng làm?

Ngày nay, hầu hết các nhà khoa học xã hội đều coi Lê Văn Thịnh là một danh nhân văn hoá.

Các tác giả Lịch sử tỉnh Hà Bắc coi ông là danh nhân quê hương, danh nhân nước Việt; tự hào rằng quê hương mình là đất khoa bảng, có ông là vị Tiến sĩ khai khoa.

Ngô Đức Thọ và cộng sự đã mở đầu cuốn sách Các nhà khoa bảng Việt Nam bằng Lê Văn Thịnh:

“Người làng Đông Cứu huyện Gia Định. Nay thôn Đông Cứu xã Đông Cứu huyện Gia Lương tỉnh Hà Bắc.

Đỗ khoa Minh kinh bác học năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh 4 (1075) đời Lý Nhân Tông. Làm quan đến chức Thái sư”.

Các tác giả đó còn ghi chú thêm:

“Ông từng giữ chức Thị lang bộ Binh, dẫn đầu sứ bộ nước ta đến trại Vĩnh Bình cùng sứ bộ nhà Tống thương lượng về việc biên giới, khi về được thăng hàm Thái sư. Đường lối chính trị của ông đã gặp phải một sức chống đối có thế lực rất mạnh dẫn đến việc ông bị khép tội “mưu phản”, bị đày đi Thao Giang năm Hội Phong 5 (1096) rồi mất ở đó. Vụ án của ông là một án kiện lớn, nhưng chỉ thấy sử sách ghi lại một cách lờ mờ qua truyền thuyết nói vua Lý Nhân Tông đi chơi thuyền trên Hồ Tây, chợt thấy con hổ ngồi trong chiếc thuyền đuổi theo vua, khi người đánh cá Mục Thận quăng lưới bắt được thì thấy con hổ biến thành Thái sư Lê Văn Thịnh.”

Trong Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế cũng viết:

“Năm Ất Mão 1075, ông đỗ trạng nguyên khoa thi đầu tiên trong nước, liền được vua trọng dụng, phong làm Thị lang bộ Binh…

Cuộc tranh luận giữa ông với viên chánh sứ nhà Thanh là Thành Trạc đạt thắng lợi. Trở về nước, ông được cất lên chức Thái sư.

… Năm Bính Tý 1096, ông bị nghi kỵ có ý phản vua (sử chép chuyện hoang đường: Ông háo hổ để hãm hại Lê Nhân Tông khi nhà vua ra hồ Dâm Đàm - Hồ Tây), bị cách chức và đày lên miền thượng lưu sông Thao. Về sau, không rõ sống chết ra sao”.

Ở đây, chúng tôi xin ghi chú thêm:

- Huyện Gia Lương nay thuộc Bắc Ninh.

- Lê Văn Thịnh đỗ đầu khoa thi Minh kinh bác học này, sử cũ chỉ ghi tên một mình ông và ông được coi là “Tiến sĩ khai khoa” - Tiến sĩ đầu tiên của nền khoa cử Việt Nam. Tự điển danh nhân cho là ông đỗ trạng nguyên thì không thực chính xác, ông chỉ đỗ tiến sĩ mà thôi. Phải đến khoa thi năm Đinh Mùi (1247) thời Trần mới lấy đỗ Tam khôi gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa; khoa đó Nguyễn Hiền mới 12 tuổi đỗ Trạng nguyên và là vị trạng nguyên đầu tiên ở nước ta.

- Thái sư là chức quan thuộc Tam công (Thái sư, Thái phó, Thái úy), đứng đầu bá quan văn võ thời bấy giờ.

Trong đời Lê Văn Thịnh có một lần bị đám mây đen bao phủ mà ngày nay hầu hết các nhà khoa học xã hội đều cho đó là một nghi án lịch sử, thậm chí khẳng định rằng ông bị oan; chẳng qua là có thể do đường lối chính trị mà ông chủ trương bị thất thế nên ông mới bị kết tội như nhóm tác giả Ngô Đức Thọ đã viết. Chúng tôi đồng ý với lập luận này.

Chúng tôi tin rằng Tào Mạt cũng không tin vào câu chuyện hoang đường về pháp thuật của người Đại Lý, ông cho Lê Văn Thịnh đội lốt hổ thay vì hóa hổ. Điều đáng bàn là Tào Mạt tô vẽ Lê Văn Thịnh thành một nghịch thần và gán cho Lê Văn Thịnh tội ác man rợ là giết ông Hề già và 4 tên gia nô cùng gia đình họ, những người không có thù oán gì với Lê Văn Thịnh; xây dựng một đội quân đội lốt hổ, hòng làm phản. Thế là điều oan khuất của Lê Văn Thịnh càng đầy thêm. Văn học nghệ thuật dễ đi vào lòng người, dễ đến với quần chúng vì vậy hình ảnh nghịch thần Lê Văn Thịnh dường như đã xóa nhòa, lấn át hoàn toàn hình ảnh một danh nhân lịch sử Lê Văn Thịnh. Đáng tiếc lắm thay! Văn học nghệ thuật quả là một vũ khí sắc bén. Tuy vậy, nó cũng là con dao hai lưỡi. Sử dụng nó thật không dễ. Chúng tôi biết rằng có viết bao nhiêu đi nữa cũng không đủ minh oan cho ông.

Dù sao đi nữa, một vết sẹo không làm nhòa mất khuôn mặt một danh nhân. Cho dù Lê Văn Thịnh có đắc tội với vua thì ông vẫn là một danh nhân của đất nước.

Có lẽ nên có một chuyên đề có tính chất lý luận bàn về quan hệ giữa văn học - nghệ thuật và lịch sử. Làm việc này chắc cũng tốn nhiều giấy mực. Chúng tôi không có ý định làm công việc đó.

Đành rằng, như Trần Vượng viết trong lời giới thiệu cuốn Bài ca giữ nước: “Tào Mạt khai thác đề tài lịch sử không phải để minh họa lịch sử, mà là mượn lịch sử để nói về những cái anh quan tâm nhất trong cuộc sống hôm nay”; nhưng cũng không nên vì thế mà “bắn súng vào quá khứ”. Ta hoàn toàn có cách để xử lý thỏa đáng vấn đề này. Tào Mạt đã xây dựng một ông Hề già không hề có thật. Tại sao ông không thể đặt tên cho nhân vật Thái sư này của mình bằng một cái tên khác? Thiếu gì cách để khỏi làm tổn thương đến một danh nhân đất nước, khỏi làm đau lòng hậu duệ của ông, đau lòng ngay cả chúng ta, những người tự coi là lớp con cháu ông, tự hào về ông.

Lê Văn Thịnh là một con người, dẫu rằng là người thiên cổ. Giờ đây Tào Mạt cũng đã là người thiên cổ. Chẳng biết ở suối vàng họ nói gì với nhau! Nhưng trên dương thế này, chúng tôi chỉ muốn biện bạch đôi lời cho nỗi oan chín trăm năm của ông và muốn thay ông kêu lên nỗi oan hơn chục năm nay. Chẳng lẽ chúng ta cứ để chất chồng và kéo dài mãi nỗi oan này? Liệu ta có thể bỏ không bao giờ diễn lại vở chèo đã khép tội oan cho một danh nhân này nữa hay không? Hay là ta cứ diễn nhưng đổi tên cho nhân vật Thái sư Lê Văn Thịnh? Xin các nhà văn hoá - nghệ thuật hiểu cho nỗi khổ tâm của chúng tôi.

Than ôi! Bàn tay sao che nổi mặt trời!

Mong lắm thay!

L.T.L
(122/04-99)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)