Hai thái sư Lê Văn Thịnh: một nghịch thần, một danh nhân (hay là nỗi oan khuất của Thái sư Lê Văn thịnh)

09:35 06/01/2010
LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

Tượng Thái sư Lê Văn Thịnh trong đền thờ tại xã Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc - Ảnh: wikipedia

Vở đầu tiên là Lý Thánh Tông chọn người tài, dựng năm 1979, được giải thưởng loại A tại liên hoan phim vô tuyến truyền hình toàn quốc năm 1983. Vở tiếp là Ỷ Lan coi việc nước, dựng năm 1980 và được huy chương vàng tại hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc ngay trong năm đó. Vở cuối cùng là Lý Nhân Tông học làm vua, dựng năm 1982, đạt huy chương vàng tại hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985 với số điểm toàn phiếu tuyệt đối, gọi nôm na là “vàng mười”.

Ba vở diễn này đã đưa Tào Mạt lên hàng đầu những nhà viết chèo nổi nhất trong những năm ấy. Mười lăm năm nay chúng được trình diễn nhiều lần và được chiếu đi chiếu lại rất nhiều lần trên vô tuyến.

Vở thứ ba là nổi tiếng nhất, là cao trào của toàn bộ ba chèo lịch sử này. Theo lẽ thường mỗi vở đều có vài trung và nịnh; trong vở này, vai nịnh điển hình nhất và cũng là đạt nhất là Thái sư Lê Văn thịnh. Ngày nay công chúng đã quá quen với một nghịch thần Lê Văn Thịnh, kẻ đã đang tâm cho chôn sống ông Hề già, rồi trở mặt giết cả nhà bốn tên thủ hạ để bịt miệng người đời, hòng xóa hết tang tích của kẻ thủ mưu; lại cho thủ hạ là người Đại Lý sắp sẵn cả một đội quân mang lốt cọp để làm việc phản nghịch; cuối cùng chính Lê Văn Thịnh đã đích thân đội lốt cọp toan vồ vua trên hồ Mù Sương (Dâm Đàm - Hồ Tây). Khỏi phải kể lại chi tiết bởi công chúng đã quá quen với nhân vật này. Phải thừa nhận rằng Tào Mạt đã rất “thành công” trong việc xây dựng nhân vật này; thật xứng với giải “vàng mười” - một trường hợp hy hữu trong các hội diễn văn hoá nghệ thuật.

Ta biết đây là vở chèo lịch sử, nghĩa là lấy đề tài từ lịch sử. Vậy, chúng ta hãy thử xem sử sách cổ viết gì?

Sử sách đều ghi Lê Văn Thịnh là Tiến sĩ khai khoa - vị Tiến sĩ đầu tiên của nền khoa cử Việt Nam, là thầy học của vua Lý Nhân Tông, 12 năm là quan đứng đầu triều đình với chức Thái sư, từng đi đàm phán về biên giới với người Tống và giành được thắng lợi trong việc đòi lại một vạt đất ở biên giới. Chỉ có một chi tiết để gợi ý Tào Mạt xây dựng nhân vật này thành nhân vật phản diện; đó là câu chuyện “hóa hổ” mà Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) đã viết:

“Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao giang. Bấy giờ vua ngự ra hồ Dâm Đàn, đi chiếc thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt đi, nói rằng: nguy lắm rồi! Người đánh cá là Mục Thận quăng cái lưới trùm lên trên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh… Trước đây Văn Thịnh có gia nô người Đại Lý có pháp thuật kỳ dị, cho nên làm ra như thế để định cướp ngôi giết vua.”

Có lẽ Toàn thư đã căn cứ vào Việt điện u linh - một tập truyện huyền thoại để viết đoạn sử này.

Và đây là những dòng được viết trong Việt điện u linh:

“Trong thời vua Lý Nhân Tông, quan thái sư Lê Văn thịnh, nuôi được một tên gia nô người Đại Lý có thuật lạ: đọc thần chú xong, biến hình thành hổ báo, Văn Thịnh cố dỗ để dạy mình thuật ấy, học được thuật rồi, liền lập mưu giết tên gia nô và định dùng thuật hại vua để cướp ngôi.

Bấy giờ vua Nhân Tông ngự ra Hồ Tây xem đánh cá, thuyền vua đang bơi trong hồ, bỗng thấy mây mù nổi lên phủ kín, rồi nghe có tiếng mái chèo tới gần, trong mây mù trông thấy có con hổ nhe răng, giương vuốt chực hại người. Nhân Tông hoảng sợ bối rối. Lúc đó, Mục Công ngồi thuyền đánh cá ở gần, nhìn kỹ thấy thế, nói: “việc gấp lắm rồi”, liền quăng lưới chụp vào thuyền kia, bắt được con hổ và nhận ra là Lê Văn Thịnh”.

Trong khi đó Việt sử lược (một bộ sử của nước ta được viết vào cuối đời Trần, nhưng không còn lưu giữ được ở trong nước, mãi về sau mới được in vào Tứ khố toàn thư đời Thanh) lại viết khác, không có câu chuyện hoang đường là Lê Văn Thịnh hóa hổ:

“Lúc bấy giờ, vua ngự chiếc thuyền nhỏ, thị vệ rất ít. Thái sư Lê Văn Thịnh từ lâu đã chất chứa mưu gian, nhân đó dùng ảo thuật làm thành khói mù lớn. Ở giữa hồ đang ban ngày, trời tối sầm lại. Bỗng chốc vua nghe thấy tiếng mái chèo lại gần, vua nghĩ chắc có biến bèn lấy giáo phóng ra. Khói mù theo giáo mà tan đi. Thấy thuyền của Văn Thịnh đã sát tới, có sẵn đồ hung khí, vua sai người bắt. Vua xuống chiếu đày Văn Thịnh đi Lương - giang - đầu. Xưa nhà Văn Thịnh có một đầy tớ (gia nô), người Đại Lý, giỏi về ảo thuật. Văn Thịnh học phép của nó, đến lúc này bèn phản.”

Vụ án Lê Văn Thịnh xẩy ra vào năm 1096. Hai, ba trăm năm sau thì vụ án đó đã đi vào quên lãng và đã biến thành một câu chuyện hoang đường. Nếu vụ án đó không có gì mờ ám, thì nó đã được ghi lại tỏ tường, và làm sao lại có được câu chuyện linh dị ấy. Cuốn Việt điện u linh được hoàn tất vào năm 1329. Người viết cuốn sách đó vốn không phải là nhằm ghi những chuyện có thật, chỉ muốn chép những câu chuyện thần thánh linh thiêng, mà trong câu chuyện này chủ yếu muốn tán dương công tích vị thần hoàng ở xã Trích Sài là Mục Thận. Và như thế Lê Văn Thịnh chỉ là một “vật tế thần” mà thôi. Nói về một kẻ bề tôi có tội trong câu chuyện thần hoàng này như thế nào mà chả được.

Đến khi người viết Việt sử lược (hoàn thành sau năm 1377) tham khảo chuyện ấy đã thấy là kinh dị mà lược bớt việc Lê Văn Thịnh hóa hổ, chỉ giữ lại chuyện ông học được thuật làm ra khói mù. Đáng tiếc là Việt sử lược bị thất lạc, không còn ở trong nước để những người làm Toàn thư tham chiếu. Thế là Toàn thư cứ theo Việt điện u linh. Dù sao một cuốn sử như Toàn thư mà chép như vậy cũng là khó lý giải. Tất nhiên, tình cảnh như trên, thì đến năm 1697, các sử quan nhà Lê không có tư liệu gì hơn để lý giải cho thỏa đáng việc Thái sư Lê Văn Thịnh bị giáng chức, họ đã chép lại truyền thuyết. Kể ra sử học mà lấy truyện huyền hoặc làm căn cứ thì thật sai lầm về phương pháp. Nhưng, chắc gì họ đã thật tin vào câu chuyện hoang đường đó. Tuy vậy, cứ chép để mà chép, cốt là ghi lại một sự kiện, mặc cho người đời sau chẳng thể lấy đó làm tin. Không tin được thì phải suy ngẫm mà tự hiểu lấy.

Ta biết, thời xưa “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Vậy là, trái lệnh vua là sai, là có tội; không vừa ý vua là có họa. Trong dằng dặc năm tháng của lịch sử có biết bao nhiêu thảm án, có biết bao nhiêu điều oan khốc. Thời đầu Lê sơ, có nhiều công thần bị giết oan mà sử sách còn ghi lại được, như Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi. Thời nhà Nguyễn cũng có nhiều đại thần bị giết hoặc tru di tam tộc. Việc tranh đoạt quyền hành, giành giật ngôi thứ hoặc bảo vệ hay cướp ngôi vua cũng thường mang lại cái chết. “Được làm vua, thua làm giặc” là lẽ thường. Nguyễn Bặc, Đinh Điền vì bảo vệ nhà Đinh nên bị Lê Hoàn giết cũng vì lẽ ấy; vậy mà sử cũ chỉ ghi lại lời Lê Hoàn kể tội Nguyễn Bặc. Toàn thư còn có ghi lại lời phê của sử thần Ngô Sĩ Liên đối với cách ghi sử đó: “Khi Bặc chết, tất có nói một lời để tỏ chính nghĩa, sử không thấy chép, thế là bỏ sót”. Có lẽ chỉ có mình Nguyễn Trãi là sau còn được vua Lê Thánh Tông giải oan cho, mà đó là vì lẽ: trước đây mẹ của vua Lê Thánh Tông khi mang thai ông đã từng được Nguyễn Trãi cứu giúp. Việc minh oan ấy cũng chỉ được Toàn thư nhắc lại sơ sài qua việc: “cho Anh Vũ là con của Nguyễn Trãi làm huyện chức”.

Theo đó mà suy, nhiều người cho rằng Lê Văn Thịnh bị kết án oan, rồi bị đời sau thêu dệt thêm thành trọng tội, chỉ có điều ông không được một minh quân nào giải oan cho. Với cách xử lý: cho “an trí ở Thao Giang”, ta có thể đoán rằng: “tội” của Lê Văn Thịnh không nặng lắm.

Xin bàn sâu thêm một chút. Câu chuyện “thâm cung bí sử” này đã qua lâu lắm rồi, bây giờ thật sự không còn có bằng chứng nào để mà khảo cứu, để mà tìm cách minh oan cho ông. Tuy vậy bằng một trực giác cảm tính, chúng ta không thể tin rằng đó là một câu chuyện có thật. Chúng ta không thể tin rằng có ai đó có pháp thuật bằng mấy câu chú mà hóa thành hổ được; thuật đó lại có thể dễ dàng truyền cho người khác. Còn như nếu cứ theo lôgic của các câu chuyện hoang đường thì phải có một câu chú khác để giải, tức là một câu chú đọc lên để con hổ đó lại hóa thành người. Ông già câu cá Mục Thận tất cũng phải có pháp thuật, chứ là người thường với cái lưới đánh cá thì sao mà chụp được hổ, lại còn hóa nó trở thành Lê Văn Thịnh. Nếu hóa được thành hổ mà “võ công” tầm thường như con hổ Lê Văn Thịnh thì hóa phép mà làm gì. Chắc Tào Mạt cũng nhận thấy cấu trúc lỏng lẻo của câu chuyện hoang đường kia, nên đã cải biến đi, cho Lê Văn Thịnh đội lốt hổ. nếu việc tiếp cận vua dễ dàng như trong câu chuyện này, thì đội lốt hổ mà làm gì cho vướng víu, chỉ cần bắn một phát tên là xong. Một văn quan đại thần đứng đầu văn võ bá quan như Thái sư Lê Văn Thịnh không thể nào chọn một phương sách giết hại vua bằng cách tự mình làm một “thích khách” như vậy. Lê Văn Thịnh phải tính toán, sau khi “vồ” vua, ông ta cần phải “giấu mặt” đi để còn có thể lên làm vua được. Tào Mạt thật khéo dựng chuyện hơn người xưa, ông cho Lê Văn Thịnh sai 4 tên gia nô đi giết ông Hề già, rồi giết cả gia đình bốn tên đó để bịt chứng tích. Cái mẹo “ném đá giấu tay” ấy mới là cao, sao “Lê Văn Thịnh thật” thuở xưa lại chẳng nghĩ ra kế đó để dùng vào “việc lớn”, phải để đến Tào Mạt mới nghĩ ra và cho phép ông dùng vào một việc chẳng đáng làm?

Ngày nay, hầu hết các nhà khoa học xã hội đều coi Lê Văn Thịnh là một danh nhân văn hoá.

Các tác giả Lịch sử tỉnh Hà Bắc coi ông là danh nhân quê hương, danh nhân nước Việt; tự hào rằng quê hương mình là đất khoa bảng, có ông là vị Tiến sĩ khai khoa.

Ngô Đức Thọ và cộng sự đã mở đầu cuốn sách Các nhà khoa bảng Việt Nam bằng Lê Văn Thịnh:

“Người làng Đông Cứu huyện Gia Định. Nay thôn Đông Cứu xã Đông Cứu huyện Gia Lương tỉnh Hà Bắc.

Đỗ khoa Minh kinh bác học năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh 4 (1075) đời Lý Nhân Tông. Làm quan đến chức Thái sư”.

Các tác giả đó còn ghi chú thêm:

“Ông từng giữ chức Thị lang bộ Binh, dẫn đầu sứ bộ nước ta đến trại Vĩnh Bình cùng sứ bộ nhà Tống thương lượng về việc biên giới, khi về được thăng hàm Thái sư. Đường lối chính trị của ông đã gặp phải một sức chống đối có thế lực rất mạnh dẫn đến việc ông bị khép tội “mưu phản”, bị đày đi Thao Giang năm Hội Phong 5 (1096) rồi mất ở đó. Vụ án của ông là một án kiện lớn, nhưng chỉ thấy sử sách ghi lại một cách lờ mờ qua truyền thuyết nói vua Lý Nhân Tông đi chơi thuyền trên Hồ Tây, chợt thấy con hổ ngồi trong chiếc thuyền đuổi theo vua, khi người đánh cá Mục Thận quăng lưới bắt được thì thấy con hổ biến thành Thái sư Lê Văn Thịnh.”

Trong Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế cũng viết:

“Năm Ất Mão 1075, ông đỗ trạng nguyên khoa thi đầu tiên trong nước, liền được vua trọng dụng, phong làm Thị lang bộ Binh…

Cuộc tranh luận giữa ông với viên chánh sứ nhà Thanh là Thành Trạc đạt thắng lợi. Trở về nước, ông được cất lên chức Thái sư.

… Năm Bính Tý 1096, ông bị nghi kỵ có ý phản vua (sử chép chuyện hoang đường: Ông háo hổ để hãm hại Lê Nhân Tông khi nhà vua ra hồ Dâm Đàm - Hồ Tây), bị cách chức và đày lên miền thượng lưu sông Thao. Về sau, không rõ sống chết ra sao”.

Ở đây, chúng tôi xin ghi chú thêm:

- Huyện Gia Lương nay thuộc Bắc Ninh.

- Lê Văn Thịnh đỗ đầu khoa thi Minh kinh bác học này, sử cũ chỉ ghi tên một mình ông và ông được coi là “Tiến sĩ khai khoa” - Tiến sĩ đầu tiên của nền khoa cử Việt Nam. Tự điển danh nhân cho là ông đỗ trạng nguyên thì không thực chính xác, ông chỉ đỗ tiến sĩ mà thôi. Phải đến khoa thi năm Đinh Mùi (1247) thời Trần mới lấy đỗ Tam khôi gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa; khoa đó Nguyễn Hiền mới 12 tuổi đỗ Trạng nguyên và là vị trạng nguyên đầu tiên ở nước ta.

- Thái sư là chức quan thuộc Tam công (Thái sư, Thái phó, Thái úy), đứng đầu bá quan văn võ thời bấy giờ.

Trong đời Lê Văn Thịnh có một lần bị đám mây đen bao phủ mà ngày nay hầu hết các nhà khoa học xã hội đều cho đó là một nghi án lịch sử, thậm chí khẳng định rằng ông bị oan; chẳng qua là có thể do đường lối chính trị mà ông chủ trương bị thất thế nên ông mới bị kết tội như nhóm tác giả Ngô Đức Thọ đã viết. Chúng tôi đồng ý với lập luận này.

Chúng tôi tin rằng Tào Mạt cũng không tin vào câu chuyện hoang đường về pháp thuật của người Đại Lý, ông cho Lê Văn Thịnh đội lốt hổ thay vì hóa hổ. Điều đáng bàn là Tào Mạt tô vẽ Lê Văn Thịnh thành một nghịch thần và gán cho Lê Văn Thịnh tội ác man rợ là giết ông Hề già và 4 tên gia nô cùng gia đình họ, những người không có thù oán gì với Lê Văn Thịnh; xây dựng một đội quân đội lốt hổ, hòng làm phản. Thế là điều oan khuất của Lê Văn Thịnh càng đầy thêm. Văn học nghệ thuật dễ đi vào lòng người, dễ đến với quần chúng vì vậy hình ảnh nghịch thần Lê Văn Thịnh dường như đã xóa nhòa, lấn át hoàn toàn hình ảnh một danh nhân lịch sử Lê Văn Thịnh. Đáng tiếc lắm thay! Văn học nghệ thuật quả là một vũ khí sắc bén. Tuy vậy, nó cũng là con dao hai lưỡi. Sử dụng nó thật không dễ. Chúng tôi biết rằng có viết bao nhiêu đi nữa cũng không đủ minh oan cho ông.

Dù sao đi nữa, một vết sẹo không làm nhòa mất khuôn mặt một danh nhân. Cho dù Lê Văn Thịnh có đắc tội với vua thì ông vẫn là một danh nhân của đất nước.

Có lẽ nên có một chuyên đề có tính chất lý luận bàn về quan hệ giữa văn học - nghệ thuật và lịch sử. Làm việc này chắc cũng tốn nhiều giấy mực. Chúng tôi không có ý định làm công việc đó.

Đành rằng, như Trần Vượng viết trong lời giới thiệu cuốn Bài ca giữ nước: “Tào Mạt khai thác đề tài lịch sử không phải để minh họa lịch sử, mà là mượn lịch sử để nói về những cái anh quan tâm nhất trong cuộc sống hôm nay”; nhưng cũng không nên vì thế mà “bắn súng vào quá khứ”. Ta hoàn toàn có cách để xử lý thỏa đáng vấn đề này. Tào Mạt đã xây dựng một ông Hề già không hề có thật. Tại sao ông không thể đặt tên cho nhân vật Thái sư này của mình bằng một cái tên khác? Thiếu gì cách để khỏi làm tổn thương đến một danh nhân đất nước, khỏi làm đau lòng hậu duệ của ông, đau lòng ngay cả chúng ta, những người tự coi là lớp con cháu ông, tự hào về ông.

Lê Văn Thịnh là một con người, dẫu rằng là người thiên cổ. Giờ đây Tào Mạt cũng đã là người thiên cổ. Chẳng biết ở suối vàng họ nói gì với nhau! Nhưng trên dương thế này, chúng tôi chỉ muốn biện bạch đôi lời cho nỗi oan chín trăm năm của ông và muốn thay ông kêu lên nỗi oan hơn chục năm nay. Chẳng lẽ chúng ta cứ để chất chồng và kéo dài mãi nỗi oan này? Liệu ta có thể bỏ không bao giờ diễn lại vở chèo đã khép tội oan cho một danh nhân này nữa hay không? Hay là ta cứ diễn nhưng đổi tên cho nhân vật Thái sư Lê Văn Thịnh? Xin các nhà văn hoá - nghệ thuật hiểu cho nỗi khổ tâm của chúng tôi.

Than ôi! Bàn tay sao che nổi mặt trời!

Mong lắm thay!

L.T.L
(122/04-99)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.