TRẦN ANH SƠN
Huế mà chúng tôi nhắc đến ở đây là xứ Huế ngày xưa, thuở còn là "Đô thành Thuận Hóa” của Chúa Nguyễn.
Bài thơ "Ải Lĩnh xuân vân" và cảnh núi Hải Vân trên chiếc tô sứ do chúa Nguyễn Phúc Chu ký kiểu - Ảnh: baotanglichsu.vn
Hai bài thơ vịnh cảnh này được viết trên hai tô sứ men xanh trắng, đường kính miệng đo được 18cm, cao 8cm đáy ghi hai chữ Thanh Ngoạn theo lối triện, trong hai vòng tròn xanh. Đây là đồ sứ "ngự dụng" của vua chúa thời Lê-Trịnh-Nguyễn, đặt làm tại Cảnh-Đức trấn (Giang Tây - Trung Quốc). Tuy đặt làm ở nước ngoài, nhưng kiểu thức, họa tiết vẫn mang đậm phong cách Việt Nam, vì do chính nghệ nhân trong nước thực hiện. Thợ chuyên môn ở Cảnh-Đức trấn chỉ việc sao chép đúng nguyên mẫu đặt hàng.
Đặc biệt nhất là những đề tài vẽ về phong cảnh đất nước, kèm theo thơ văn đề vịnh của vua chúa hay các danh sĩ người Việt, loại đồ sứ này ngày nay gọi chung là "Đồ sứ men Lam Huế".
隘嶺春雲 |
Bài l: ẢI LĨNH (1) XUÂN VÂN
Việt Nam xung yếu thử sơn điên (2)
Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo (3) thiên
Đản kiến vân hoành tam tuấn lĩnh
Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên
Lãnh triêm tu phát phi đồng tuyết
Thấp tiễn y thường khởi thị tuyền
Duy nguyện hải phong xuy tác vũ
Chính nghi thiên lý nhuận tang điền
Đạo nhân thư
Dịch: MÂY XUÂN NÚI ẢI
Việt Nam hiểm trở cỏ non này
"Thục-đạo” nghìn trùng giống vậy thay
Chỉ thấy mây che ba đỉnh lớn
Nào hay người ở mấy từng đây
Không khe suối, cũng đầm khăn áo
Chẳng tuyết băng, sao buốt mặt mày
Gió biển nguyện xin thành vũ lộ
Ruộng dâu ngàn dặm tốt tươi bày.
Đạo nhân viết
順化晚市 暖烟夕照戀江濱 細听鶯啼處處春 晚市只看紅粉女 通衢不斷扆羅塵 時沽白酒能筵客 日用青錢卻便民 交易豈無衡與斗 還餘風俗葛天淳 道人書 |
Bài II: THUẬN-HÓA (4) VÃN THỊ
Noãn yên tịch chiếu luyến giang tân
Tế thính oanh đề xứ xứ xuân
Vãn thị chỉ khan hồng phấn nữ
Thông cù bất đoạn ỷ la trần
Thời cô bạch tửu năng diên khách
Nhật dụng thanh tiền khước tiện dân
Giao dịch khởi vô hành dữ đấu
Hoàn dư phong tục Cát - Thiên (5) thuần
Đạo nhân thư
Dịch: CẢNH CHỢ CHIỀU HUẾ
Khói ấm hoàng hôn quyện bến sông
Lắng nghe oanh hót bạt ngàn xuân
Chợ chiều tha thướt đàn con gái
Suối lụa tung hô nẻo bụi trần
Rượu trắng vui vầy mua đãi khách
Tiền đồng trao đổi tiện cho dân
Bán buôn lọ phải cần cân đấu
Nếp Cát - Thiên xưa vẫn thấm nhuần
Đạo nhân viết
Trong sách cũ (Đại Nam nhất thống chí - Thừa Thiên phủ do Quốc sử quán triều Nguyễn - Duy Tân ấn hành) có ghi lại được nửa bài "Ải Lĩnh xuân vân", nhưng các câu phá thừa, mỗi một câu lại khác đi hai chữ. Như vậy, hóa ra một sản phẩm nghệ thuật (sành sứ) vô hình chung lại trở thành loại văn bản đặc biệt có khả năng bảo tồn văn học cổ, khiến cho khỏi bị mai một, thất truyền.
Trước hẳn nói về "Ải Lĩnh xuân vân". Ải Lĩnh, tức là đèo Hải Vân. Một quan ải hiểm trở nhất trên con đường dân Việt về phương Nam: "Việt Nam xung yếu thử sơn điên", cái hiểm trở này làm ta nhớ đến Thục đạo - con đường đất Thục "Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên". Trên "cõi thục đạo” này, người vượt đèo "chỉ thấy mây giăng ba đỉnh núi lớn, nào hay người ở mấy từng đây": thực là hùng, thực là vĩ.
Sau câu luận nói về cái nỗi gay gắt của khí hậu thiên nhiên - sơn lam chướng khí, tác giả thổ lộ tâm tình qua câu kết với một lời nguyện cầu vương giả: "gió biển nguyện xin thành mưa móc, ruộng dâu nghìn dặm tốt tươi bày".
![]() |
![]() |
Bài "Thuận Hóa vãn thị " (順化晚市) viết trên chiếc tô sứ vẽ cảnh bến chợ ở Thuận Hóa xưa- Ảnh: anhsontranduc.wordpress.com |
Rồi đến bài: "Thuận Hóa vãn thị", đây là bài thơ chưa được biết đến. Ở "cảnh chợ chiều Huế", tác giả càng để lộ cốt cách và tài năng của một bậc đế vương thi sĩ - hay thi sĩ đế vương cũng thế. Bên cạnh thái độ thưởng thức trọn vẹn - thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên cẩm tú cũng như của nếp nhân sinh thuần hậu, còn là một thái độ ý thức - ý thức về trách nhiệm của bậc minh chúa, nặng lòng lo cho dân, cho nước. Thái độ thưởng thức mà ý thức này thiết tưởng khỏi cần biện giải cho thêm dông dài: tự bài thơ đã nói lên tất cả.
Điều cảm động nhất ở "Thuận Hóa vãn thị" có lẽ là cái chứng tích về một thời, thuần mỹ của nếp sống Huế ngày xưa. Cái vùng đất mà trước khi Nguyễn Hoàng vào còn được gọi là "Ô Châu ác địa”, nơi mà chúa Trịnh đã bằng lòng với ý đồ đẩy em vợ và cũng là đối thủ của mình vào chỗ chết.
Trên đây đã nói về thơ. Nay xin có đôi dòng về tác giả. Hai bài thơ ký "Đạo nhân thư" ở trên, tác giả chính là THIÊN TÚNG ĐẠO NHÂN NGUYỄN - PHƯỚC CHÂU.
Ông là vị chúa thứ 6 ở Đàng Trong, sinh năm 1674. Năm 1691 nối ngôi Nghĩa vương Nguyễn - Phước Thái, tự xưng là Đại Việt Quốc chúa. Là người ham học, tài kiêm văn võ. Dưới thời ông, chiến tranh giữa hai họ Trịnh - Nguyễn đã tạm dứt, xã hội ổn định, nông thương nghiệp rất phát triển. Lần đầu tiên ở Đàng Trong bắt đầu tổ chức khoa cử để chọn nhân tài. Đặc biệt, Minh Vương rất sùng mộ đạo Phật, có pháp danh là HƯNG LONG, đạo hiệu là Thiên Túng đạo nhân (Vị đạo nhân hoàn toàn cởi bỏ mọi ràng buộc hạn chế), cho thỉnh kinh tạng và rước danh tăng Trung Quốc qua truyền giáo. Ông mất năm 1724, đời Gia Long truy tôn là Hiển-Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế.
Xứ Huế ngày nay được thấm nhuần đạo Phật, thấm nhuần "nếp Cát Thiên thuần hậu", một phần là do công của ông.
Từ Tiên chúa Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa (1558) đến Định Vương Nguyễn - Phước Thuần, sau khi bị Hoàng - Ngũ Phúc chiếm đô thành - phải bỏ chạy vào Nam (1774), họ Nguyễn truyền nối được chín đời cộng lại 126 năm. Trong hơn hai thế kỷ, Huế là thủ phủ của Đàng Trong nước Việt, dần dần hình thành một trung tâm văn hóa lớn của dân tộc tiếp sau trung tâm văn hóa Thăng Long. Tiếc thay những công trình kiến trúc, văn vật, thư tịch... của thời đại này đến nay đã trải qua hơn 400 năm, sau những cơn binh lửa, thay bậc đổi ngôi phần lớn đã bị tiêu hủy gần hết. Ngay tại cái nôi Thuận Hóa, họa hoằn còn sót lại được vài tấm bia đá, quả chuông đồng... nhờ nương bóng cửa Từ Bi mà thoát được sự tàn phá, tranh chấp của người đời.
Trong cái họa hoằn còn sót lại, chúng tôi xin giới thiệu hai bài thơ đã dẫn có thể nói là tài liệu quý về văn sử cũng như sứ cổ, ngỏ hầu góp chút công sức vào việc bảo tồn di sản văn hóa của tiền nhân.
T.A.S
(TCSH44/01-1991)
------------------
Chú thích:
(1) Ải lĩnh: phía nam Thừa Thiên giáp giới với Quảng Nam. Trên núi có đặt cửa ải nên gọi là ải lĩnh; nhân gian còn gọi là Ngãi Lĩnh, vì núi này mọc rất nhiều cây ngãi. Năm 1826, vua Minh Mạng cho xây lại cửa ải, mặt trước đề là Hải Vân quan, mặt sau ghi là Thiên hạ đệ nhất hùng quán, từ đó phổ biến thành tên núi hoặc đèo Hải Vân cho đến nay.
(2) "Việt Nam xung yếu thử sơn diên": theo Đại Nam nhất thống chí - Thừa Thiên phủ (tập thượng) do Quốc sử quán triều Nguyễn - Duy Tân ấn hành (1910), ghi: đời vua Hiến Tôn, tuần hành Quảng Nam, qua núi Hải Vân có ngự đề bài thơ:
"Việt Nam hiểm ải thử sơn điên
Hình thế hồn như Thục đạo thiên
Đản kiến vân hoành tam tuấn lĩnh
Bất tri nhân tại kỹ trùng thiên"
Tu - Trai Nguyễn Tạo dịch: (Nha Văn hóa Bộ QGGD Sài Gòn xuất bản 1961, Tr.54) "Chót núi này là hiểm trở nhất ở Việt Nam...". Trong cuốn "Cố đô Huế” do Thái Văn Kiểm biên soạn (Nha Văn hóa Bộ QGGD Sài Gòn xuất bản 1960, Tr.127), cũng chép lại 4 câu thơ trong ĐNNTC, và dịch: "Núi này quan ải nước Nam". Theo ý chúng tôi thì hai chữ "Việt Nam" mở đầu bài thơ chỉ có nghĩa là vượt về phương Nam của đất nước. Tuy các chúa Nguyễn cát cứ đàng trong nhưng vẫn dùng quốc hiệu là Đại Việt và niên hiệu của vua Lê. Tên nước Việt Nam, kể từ thời Gia Long về sau mới có.
(3) Thục đạo: đường vào đất Thục ở Trung Quốc có 3 cửa ải rất hiểm trở: Dương Bình, Bạch Thủy và Tiên Nhân.
(4) Thuận Hóa:
Sau khi vua Chiêm Chế - Mân dâng hai châu Ô và Lý làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân, gồm đất từ nam sông Gianh qua hết đèo Hải Vân. Thời các chúa Nguyễn, Thuận Hóa dùng để chỉ nơi đóng dinh trấn gọi là đô thành Thuận Hóa (hoặc Huế)
(5) Cát Thiên: "Cát Thiên thị", vị vua thời thượng cổ của Trung Quốc. Theo truyền thuyết thì thời vua này trị vì dân chúng được sống trong cảnh thái bình, phong tục thuần hậu.
LÊ QUANG THÁI
Thời hiện đại có cúng tế thì Xuân thu nhị kỳ, chọn một trong hai. Tại đền hoặc miếu Thành hoàng của làng xã mở hội tế vị thần hộ mệnh để cầu mong an cư lạc nghiệp. Hát Sử và Dã sử trong lễ hội long trọng không thể thiếu vắng.
PHAN THUẬN HÓA
LGT: Đài Tưởng niệm Chiến sĩ Trận vong nằm ở trước Trường Quốc Học (thường được gọi là Bia Quốc Học) là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc độc đáo của Huế; trong thời gian qua Trung tâm Công viên Cây xanh Huế đã đứng ra đầu tư tu bổ tôn tạo.
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Đại Học Huế & 60 năm Khoa Văn Đại học Khoa học Huế
PHAN THUẬN AN
(Cựu sinh viên trường Đại học Văn Khoa, và khóa I Viện Hán Học Huế)
Rạng sáng ngày 22-3 (tức 25-2 âm lịch), Trung tâm bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tổ chức lễ tế Xã Tắc năm 2017 tại đàn Xã Tắc, phường Thuận Hòa, thành phố Huế. Buổi lễ diễn ra trang nghiêm trong vòng gần một giờ đồng hồ theo các nghi lễ và vật phẩm được định rõ trong sách sử.
Mùa Xuân 1904
Trần Quý Cáp bước vào tuổi 34 và đỗ đầu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn tại Huế. Ông ở Huế chưa đầy nửa năm, rồi về Quảng cho kịp ngày khai hội Duy Tân.
Mối quan hệ hợp tác về trùng tu di sản văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản tại cố đô Huế đã được đặt nền móng từ đầu thập niên 1990 bằng dự án trùng tu công trình Ngọ Môn, một biểu tượng của Huế.
VÕ TRIỀU SƠN
Voi đang ngày càng hiếm hoi, vậy mà ngày xưa, nó từng xuất hiện ở Huế hàng ngàn thớt voi trong kinh thành. Nhiều tư liệu xưa đã đề cập đến chuyện nuôi voi trên đất Cố đô xưa.
DƯƠNG VIỆT QUANG
Sử cũ cho thấy rằng, triều Nguyễn đã rất chú trọng việc đầu tư thủy lợi, giao thông đường thủy. Một thống kê từ “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” cho biết, có đến gần 60 lần các vua Nguyễn ban hành chỉ dụ về việc đào sông, nạo vét kênh rạch… ở 15 tỉnh trong cả nước.
THƠM QUANG
Tết Nguyên Đán luôn là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tết Nguyên Đán là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Trong đó ngày cuối cùng của năm hay còn gọi là ngày 30 tết là một ngày đặc biệt.
LÊ VĂN LÂN
Đô thị phát triển nhanh là điều đáng mừng, nhưng phát triển nhanh và kiểm soát được là điều hệ trọng. Và để kiểm soát được, đô thị phải được phát triển theo một kịch bản. Kịch bản đó chính là quy hoạch đô thị, chân dung tương lai của đô thị.
Nhìn lại một năm nhiều khó khăn
Năm 2016 sự cố môi trường biển đã tác động tiêu cực, lâu dài đến tăng trưởng của nền kinh tế các tỉnh miền Trung, trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế.
TRƯỜNG AN
Giấc mơ đó, cũng chính là sự thể hiện quyết tâm với thái độ quyết liệt để phát triển du lịch Thừa Thiên Huế; nhiều chủ trương và giải pháp được coi là có tính đột phá mạnh mẽ và quyết liệt nhất từ trước đến nay vừa được đề xuất. Toàn tỉnh đang phấn đấu trở thành một trong những điểm đến hàng đầu của cả nước và khu vực; một điểm đến ngang hàng với các thành phố di sản văn hóa nổi tiếng thế giới.
HỒ VĨNH
Vừa qua Tạp chí Sông Hương số 333 tháng 11 năm 2016 có đăng bài “Làng cổ Dương Hóa” của tác giả Trần Viết Điền. Sau khi đọc bài “Làng cổ Dương Hóa” tôi thấy cần phải trao đổi và đóng góp một số ý kiến hầu làm sáng tỏ hơn ở một số chi tiết mà tác giả Trần Viết Điền đã viết.
Ở phía tây nam Kinh thành Huế, thuộc bờ nam sông Hương, có một dãy núi uốn lượn như mình rồng mang tên Long Sơn. Vùng long mạch này từ cuối thế kỷ 17 đã phát tích dòng thiền Việt do tổ Liễu Quán khai sáng.
TRẦN VĂN DŨNG
Những ngôi phủ đệ là di sản văn hóa - lịch sử, kiến trúc nghệ thuật sống động, độc đáo của đất Cố đô Huế, có từ triều Nguyễn với 13 đời vua (1802 - 1945), và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
LÊ VĂN LÂN
Xây dựng Huế trở thành một đô thị đáng sống, một thành phố lịch sử cổ kính, văn minh, hiện đại là mong ước của người dân và cũng là mục tiêu mà thành phố vươn tới.
HỒ VĨNH
Vừa qua Tạp chí Sông Hương Đặc biệt số 19 tháng 12/2015 đã đăng ba bài viết cung cấp một số tư liệu có liên quan đến Hội Quảng Tri ở Huế của các tác giả sau đây:
Tin vui cho công chúng yêu nghệ thuật và giới văn nghệ sĩ Huế, tại Kỳ họp thứ 2 HĐND tỉnh, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã thông báo cho cử tri biết về lộ trình thành lập Bảo tàng Mỹ thuật Huế.
THÁI KIM LAN
Nhân kỷ niệm 120 năm trường Quốc học Huế
Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.