1. Nói tới Huế, không thể không nhắc tới sông Hương. Sông Hương, dòng sông mang cái tên dịu dàng ấy gắn liền miền đất cố đô, là một phần của Huế. Thật khó có thể tưởng tượng Huế không có sông Hương. Ấy là nói vậy thôi chứ đương nhiên sông Hương là dòng sông của Huế, sông Hương là một phần của Huế; và sông Hương cũng là Huế.
Suốt mấy trăm năm, sông Hương chảy qua trước kinh thành Phú Xuân, hay nói cách khác; toà thành của nhà Nguyễn – vương triều phong kiến cuối cùng được xây dựng trên một bố cục tổng thể hài hoà với thiên nhiên theo những nguyên tắc của Dịch học; mà ở đó dòng sông có ảnh hưởng lớn. Sông Hương đã tạo nên gương mặt của cả kinh thành Phú Xuân; và trải qua bao biến cố trầm luân của lịch sử, sông Hương cũng vẫn tạo nên vóc dáng của thành phố Huế bây giờ. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì sông Hương là một yếu tố quan trọng trong quy hoạch thành phố Huế.
Sông Hương chia thành phố Huế làm đôi: bờ bắc và bờ nam. Bờ bắc là kinh thành cổ xưa, là lầu son gác tía, là những kiến trúc rêu phong in dấu thời gian… của một thời vang bóng. Bờ nam là phố mới, là đô thị mới, là sức sống, là sự phát triển… Một bên là quá khứ, là tĩnh lặng; một bên là hiện tại và tương lai, là những âm thanh sôi động. Đôi bờ sông, như thể hai sự đối lập, nhưng lại vẫn hài hoà, tương hỗ, tôn cao lẫn nhau; không lấn át nhau. Ở giữa là dòng sông, với những gợn sóng, những gợn sóng bao đời của dòng sông êm ả.
2. Năm 1897 (tức năm Thành Thái thứ 9), cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hương được chính quyền Pháp ở Trung kỳ cho xây dựng ở phía tả kinh thành, và hoàn thành sau hai năm xây dựng – năm 1899 (năm Thành Thái thứ 11). Cây cầu thép đã có nhiều tên và cuối cùng được gọi là cầu Trường Tiền ấy; là một trong những cây cầu thép được xây dựng đầu tiên ở Đông Dương, và nhiều tuổi hơn cả cầu Long Biên bắc qua sông Hồng ở Hà Nội – vốn nổi tiếng là một cây cầu thép quy mô, lớn nhất Đông Dương và châu Á bấy giờ (1899 – 1902).
Sông Hồng vốn là một con sông dữ dội, sông Hương êm đềm hơn rất nhiều. Cầu Long Biên dài 1.682m, gấp hơn bốn lần chiều dài cầu Trường Tiền (401m), cầu Long Biên có 19 nhịp, cầu Trường Tiền sáu nhịp (mà dân gian vẫn quen gọi ngược cho thuận vần trong câu ca dao là “6 vài 12 nhịp” – thực chất là “6 nhịp 12 vài”). Không rõ vì lý do kết cấu xây dựng, hay đơn giản là ý đồ sáng tạo trong tạo hình của những tác giả thiết kế; mà hình dáng cầu Long Biên ở Hà Nội có góc cạnh, mạnh mẽ, khoẻ khoắn… còn hình dáng cầu Trường Tiền ở Huế lại dịu dàng, mềm mại, điệu đà…
Dẫu thế nào thì hình ảnh cầu Trường Tiền với những vòm cong soi bóng xuống dòng sông đã trở thành một nét đẹp không phai, một biểu tượng, in dấu trong lòng người dân xứ Huế và cả những người yêu mảnh đất cố đô. Sau này, trên phạm vi thành phố Huế có những cây cầu khác lớn hơn bắc qua sông Hương như cầu Phú Xuân, cầu Chợ Dinh, và gần đây nhất là cầu Dã Viên; thì cầu Trường Tiền vẫn là tâm điểm số một. Trường Tiền như một món trang sức dành riêng cho dòng sông thơ mộng.
Phải chăng những nhịp cầu cong cong chính là những gợn sóng sông Hương?
|
|
|
|
Ảnh trên trái: Mái chợ Đông Ba. Ảnh dưới trái: Mái khối sảnh khán đài sân vận động Tự Do. Ảnh phải: Khối giảng đường trường đại học Sư phạm. Ở góc nhìn này cho thấy sóng mái "lượn"cả trên mặt bằng. |
3. Kiến trúc sư tài danh Ngô Viết Thụ, người con xứ Huế cũng đã để lại nhiều công trình ở mảnh đất quê hương, trong đó có những công trình nằm ngay bên dòng sông êm ả. Những công trình của ông đều mang dấu ấn kiến trúc hiện đại, nhưng lại chắt lọc những gì tinh tế nhất của kiến trúc và văn hoá truyền thống. Sáng tạo kiến trúc trong một bối cảnh không thuận lợi, nhưng dường như những thiết kế của KTS Ngô Viết Thụ vượt qua những rào cản chính trị – xã hội đương thời, để trở thành những tác phẩm có giá trị bền vững. Những công trình ở Huế của ông đã để lại dấu ấn mạnh mẽ.
Phải chăng những gợn sóng sông Hương là nguồn cảm hứng cho những đường nét kiến trúc nhấp nhô ở lớp mái? Hay cũng có thể là những nhịp cong của cầu Trường Tiền được kéo dài ra mãi? Có lẽ đó không chỉ là một cảm hứng đơn thuần, đơn lẻ mà trở thành một nguyên tắc tạo hình có tính hệ thống. Những công trình nằm bên sông như khách sạn Hương Giang, khách sạn Century, viện đại học Huế (nay là trường đại học Sư phạm Huế) là những khối nhà trải dài, đều mang những gợn sóng nhấp nhô trên mái; thậm chí cả trên cổng. Điều rất thú vị ở những “gợn sóng mái” này được tạo hình nhấp nhô trên cả mặt đứng lẫn mặt bằng; và vì vậy, dù đứng ở bất kỳ đâu, xa hay gần, thấp hay cao thì vẫn cảm nhận được những gợn sóng, như đang chuyển động, hoà cùng dòng sông.
Đó như một nét riêng độc đáo, một phong cách tác giả, thể hiện một sự nhất quán, kiên định; và cũng thể hiện một tư duy kiến trúc có chiều sâu của những bậc thầy!
4. Cầu Trường Tiền đã soi bóng trên dòng sông Hương hơn một trăm năm, vắt qua ba thế kỷ, qua bao thăng trầm lịch sử. Còn sông trôi đã mấy ngàn năm? Những con sóng cứ miên man, những gợn sóng nhấp nhô vô tận theo cả không gian và dòng thời gian… Và chắc cũng vì lẽ đó, hình ảnh những con sóng, những gợn sóng như một nét riêng của kiến trúc Huế. Gợn sóng và dòng sông trở thành một niềm cảm hứng sáng tạo, trở thành một hình tượng biểu đạt, một đối tượng khai thác của chủ nghĩa hình thức.
Có thế đó là một điều thú vị, rất riêng, rất đẹp và tinh tế; đôi khi cũng có thể như một sự ngộ nghĩnh đầy đáng yêu. Hình ảnh những gợn sóng được nhắc lại như một điều dễ hiểu. Những gợn sóng ở mái nhà, mái sảnh, mái cổng… tạo nên những nét cong mềm mại, gợi cảm giác dàn trải và bình lặng – nhưng không tẻ nhạt. Những công trình cũ hay mới xây gần đây; to hay nhỏ đều có thể có hình ảnh những gợn sóng. Có cảm giác rằng, đưa được những con sóng vào công trình, lên mái nhà chính là một niềm tự hào. Đó có thể là những gợn sóng ở sông, đó có thể là vòm cong của những nhịp cầu, và đó cũng có thể chính là “phiên bản” mái của KTS Ngô Viết Thụ. Dù nguồn gốc có thế nào, thì đó vẫn là một nét riêng đáng nhớ, đáng trân trọng.
Đó là Huế, những gợn sóng sông Hương!
BÀI & ẢNH: KTS NGUYỄN TRẦN ĐỨC ANH
Mái sóng ở khách sạn Century – thiết kế của KTS Ngô Viết Thụ.
|
|
|
Ảnh phải: Cổng trường đại học Sư phạm – thiết kế của KTS Ngô Viết Thụ. Ảnh trái: Mái sảnh công trình Nhà sách, chỉ với một nét cong – một gợn sóng. |
Theo sgtt.vn
Địa danh Thanh Hà thuộc xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay. Nằm phía bờ tả ngạn sông Hương, cách kinh thành Huế 4 km, cách cửa biển Thuận An khoảng 10km. Với vị trí trên bến, dưới thuyền, cư dân có truyền thống buôn bán, ở Thanh Hà sớm xuất hiện chợ làng, nơi hội tụ hàng hóa của cư dân các vùng lân cận.
Bộ sử bằng thơ này được các ông hoàng nhà Nguyễn khởi viết từ khoảng 1907-1916, kéo dài đến khoảng 1926. Ban đầu được lưu trữ ở thư viện gia đình Lục Khanh, sau được cất giữ ở chùa Từ Quang (Thừa Thiên - Huế). Vốn là tài liệu độc bản, viết tay bằng chữ Nôm, gồm 1.884 câu lục bát.
Huế có thể trở thành đô thị sinh thái thiên nhiên và sinh thái nhân văn, đô thị sang về Dĩ vãng và giàu về Hiện tại, nếu ta nhận thức rõ và ra sức bênh vực cái cơ ngơi mà nó sở hữu.
SHO - Chiều ngày 21/4, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức lễ Tổng kết trại sáng tác văn học nghệ thuật“ về đề tài "Con người và thiên nhiên quê hương Thừa Thiên Huế” tại văn phòng Liên hiệp hội, 26 Lê Lợi, thành phố Huế. Hơn 50 tác phẩm thuộc các chuyên ngành gồm: văn học, âm nhạc, nhiếp ảnh, hội họa... đã được sáng tác trong đợt này. Trại sáng tác khai mạc vào ngày 10/4 tại khách sạn Phong Lan, vườn quốc gia Bạch Mã, kéo dài trong 10 ngày bao gồm 4 ngày thực địa và 6 ngày hoàn thành tác phẩm tại nhà.
Xe chạy tầm 45 phút thi tới đỉnh điểm đậu xe gần Vọng Hải Đài, xuống xe bắt đầu đi bộ ra. Vọng Hải Đài là điểm cao nhất Bạch Mã, từ đây có thể nhìn được vịnh Lăng Cô, Hồ Truồi…
Từng viếng thăm nhiều ngôi chùa nhưng khi đến Đông Thiền, tôi thật sự thích không gian xanh mát tĩnh lặng nơi đây, cảm giác như được sống trong một thế giới khác.
SHO - Chiều ngày 10/4, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tổ chức Khai mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật “Con người và thiên nhiên quê hương Thừa Thiên Huế” tại vườn Quốc gia Bạch Mã, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế.
SHO - Sáng ngày 4/4, hàng trăm cựu chiến binh(CBB) của hai tiểu đoàn 804 - 810 (K4 - K10) đã có buổi họp mặt kỷ niệm 40 năm giải phóng Thừa Thiên Huế tại Ban chỉ huy Quân sự Thành phố, 25A Trần Cao Vân, Tp Huế.
Quốc tự Thánh Duyên toạ lạc ở Tuý Vân sơn, ngày trước thuộc phường Đông Am, tổng Diêm Trường, huyện Phú Lộc, phủ Thừa Thiên; nay là làng Hiền An, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cùng với Linh Mụ và Diệu Đế, Thánh Duyên là một trong ba ngôi quốc tự của xứ Thần kinh còn tồn tại cho đến ngày nay.
Không phải đền đài, lăng tẩm uy nghi mà chính những điều bình dị như góc phố yên bình hay giọng nói ngọt ngào đã để lại nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng du khách.
Nhắc đến cố đô Huế, người ta không thể không kể tới các nhà vườn, bởi kiến trúc của nhà vườn Huế cũng có một lịch sử lâu đời trên 200 năm kể từ khi nhà Nguyễn xây dựng kinh đô.
SHO - Tối 26/3, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức bắn pháo hoa tầm cao để chào mừng kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên Huế (26/3/1975-26/3/2015).
SHO - Hòa chung trong không khí tiến tới kỷ niệm thống nhất đất nước, sáng ngày 26/3 tỉnh Thừa Thiên Huế trang trọng tổ chức Lễ mitting kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế (26/3/1975- 26/3/2015) tại Sân vận động Tự Do, Thành phố Huế.
SHO - Chào mừng kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng quê hương Thừa Thiên Huế (26/3/1975- 26/3/2015), Liên hiệp các hội VHNT tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế tổ chức khai mạc triển lãm ảnh thời sự nghệ thuật với chủ đề: “Thừa Thiên Huế- 40 năm xây dựng và phát triển” vào chiều ngày 25/3, tại Bảo tàng Văn hóa Huế - số 25 Lê Lợi - Thành phố Huế.
Tiếp bước hành trình khám phá những ngôi chùa Huế, ta sẽ đến với một ngôi chùa – một tổ đình – nơi thể hiện tấm lòng bao dung của nhà Phật với những con người không toàn vẹn – Từ Hiếu. Chùa nằm ở thôn Dương Xuân Thượng III, xã Thủy Xuân, thành phố Huế.
Khi bàn về Nhã nhạc người ta thường chú trọng nhiều đến thành phần, biên chế các loại dàn nhạc và bộ phận nhạc không lời do các nhạc cụ diễn tấu, mà ít đề cập đến một bộ phận quan trọng của Nhã nhạc là thể loại nhạc có lời.
Trong kiến trúc cung đình Nguyễn tại Huế, hình thức nhà tạ có mặt ở khắp nơi: Hoàng cung, Hành cung, Biệt cung và ở cả các lăng tẩm đế vương.
Để nhã nhạc cung đình Huế “sống lại” như ngày hôm nay, có công rất lớn của cụ Lữ Hữu Thi- nhạc công cuối cùng của triều Nguyễn. Cụ đã âm thầm, kiên trì vượt qua khó khăn trước những thăng trầm của lịch sử để giữ gìn và trao truyền ngọn lửa nhã nhạc, đưa nhã nhạc từ chỗ bị lãng quên trở thành di sản của nhân loại.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã tinh tế nhận xét: “Người Huế ăn bằng mắt trước khi ăn bằng miệng”.
Ngài thủy tổ họ Hồ Đắc làng An Truyển, xã Phú An, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế vốn là gốc từ ngoài bắc vào lập nghiệp thường được dân làng gọi là Hồ Quản Lãnh.