Nếu như ở các địa phương khác việc thờ cúng loài chó chỉ mang ý nghĩa là thần canh cổng, trông coi nhà cửa, giúp trừ tà, cầu phúc, thì việc thờ cúng "Thiên Cẩu" ở hai thôn Phổ Trung, phổ Đông, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế mang một ý nghĩa khác hẳn: Thờ chó đá gắn liền với những giai thoại ly kỳ về "linh khuyển" được trời ban xuống trần gian, được nhân dân trong thôn truyền miệng cho con cháu từ đời này sang đời khác.
Miếu "Thiên Cẩu" được đặt ngay đầu thôn Phổ Đông.
Cách trung tâm TP. Huế không xa, dọc theo quốc lộ 49, sau rất nhiều lời hỏi thăm với vô số ngã rẽ chúng tôi tìm về hai thôn Phổ Trung và Phổ Đông. Ghé vào một quán nước ven đường, khi nghe chúng tôi hỏi về miếu thờ "linh khuyển", chủ quán cho biết: "Ở làng này có nhiều thôn lắm, nhưng mà miếu thờ Chó đá thì chỉ có ở hai thôn là Phổ Trung và Phổ Đông thôi, miếu được đặt ngay đầu thôn, dưới có một bệ thờ, trên có mái che để bảo vệ cho "ngài". Trong miếu có đĩa dâng, nhang đèn, trầu cau, ngày rằm, mùng một bà con tới đông lắm".
Theo lời chỉ dẫn của người dân địa phương, chúng tôi tìm đến miếu thờ ngài "Thiên Cẩu", đó là hai ngôi miếu tuy nhỏ nhưng được chăm nom cẩn thận. Nếu như miếu thờ ở làng Phổ Đông là hình tượng chó đá màu vàng, với dáng ngồi khoan thai, tai dựng, mắt nhìn thẳng về phía trước, miệng há, lưỡi lè, thì tượng chó đá ở làng Phổ Trung có màu đen, hơi nhổm bằng bốn chân, đuôi vắt vẻo, được dân làng che bằng một tấm khăn đỏ. Theo lời những bậc cao niên trong hai thôn miếu thờ "linh khuyển" đã tồn tại cách đây hàng trăm năm, từ thời các vị vua nhà Nguyễn trị vì.
Khi chúng tôi thắc mắc tại sao, người dân trong thôn lại thờ cúng loài chó làm con vật linh thiêng của thôn, thì được những người trong thôn Phổ Đông giải thích: "Theo lời người xưa kể lại, ngày ấy, do các điện thờ linh thiêng làng đối diện chiếu qua nên trong làng không có người đỗ đạt, thành danh. Các bô lão trong làng thỉnh ngài "Thiên Cẩu" về làng chính là để trấn giữ làng và phá thế "chiếu" của làng bên kia". Cụ Bùi Thị Con, năm nay đã ngoài 80 tuổi nói: "Thực hư câu chuyện đó như thế nào tui cũng không rõ nhưng các thế hệ sau này đều đỗ đạt thành danh và có công ăn việc làm".
Tại thôn Phổ Trung, chúng tôi gặp ông Võ Văn Mừng, người thường xuyên nhang khói miếu "Thiên Cẩu", ông kể cho chúng tôi nghe nguồn gốc việc thờ cúng "ngài" đã có cách đây trên 100 năm. Xưa kia, dân làng Phổ Trung đều rất nghèo, không hiểu tại sao trong làng thường xuyên xảy ra hỏa hoạn. Những ngôi nhà tự nhiên bốc cháy mà không có lý do. Một hôm, trong ngôi nhà nhỏ của một người đàn ông làm nghề chài lưới, khi ông đang ăn cơm thì ngôi nhà bỗng dưng bốc cháy phừng phừng, ông chài hoảng quá liền hô hoán, cả làng ầm ầm kéo đến, người dùng xô, kẻ múc nước chuyền tay nhau dập lửa nhưng lạ thay, lửa gặp nước lại cháy càng hăng, người dân Phổ Trung thấy vậy thì kinh hồn bạt vía, ngỡ rằng gia đình ông Chài đang bị trời đày, liền bỏ chạy toán loạn. Bỗng dưng, một con chó trắng lao tới, sủa lên ba tiếng, ngọn lửa ngay lập tức được dập tắt trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của dân làng.
Ngày hôm ấy, vị trưởng làng Phổ Trung biết có điềm kỳ lạ bèn mời một thầy pháp về làm lễ lên đồng khấn tế. Sau một hồi làm lễ cũng bái, hai mắt thầy pháp trợn ngược, thần sắc phiêu linh, thầy phán rằng: "Các ngài bề trên thấy dân làng Phổ Trung cực khổ, cuộc đời trầm luân trong dòng nước đục, bèn phái vị "linh khuyển" xuống trần gian giúp đỡ chúng sinh". Nghe vậy, dân làng vô cùng sung sướng, liền lấy ngày mà gia đình ông Chài bị cháy là ngày "Thiên Cẩu" đồng thời cung kính lập miếu thờ, thỉnh "ngài" về đầu làng với mong muốn được "ngài" che chở".
Miếu thiêng không được mạo phạm
Các bậc cao niên của làng Phổ Trung cho biết, từ xa xưa những người trong làng rất tin vào sự linh thiêng của miếu "Thiên Cẩu", niềm tin mãnh liệt ấy được truyền từ đời này sang đời khác, họ cho biết, miếu thờ đã tồn tại hàng trăm năm, trải qua nhiều biến cố, gắn bó với những thăng trầm của mảnh đất này nên nó kết tinh, tập trung linh khí của dân làng. Ông Võ Văn Mừng giải thích: "Không phải ngẫu nhiên mà dân làng lại tin tưởng vào sự linh thiêng của miếu "Thiên Cẩu" như vậy. Những câu chuyện gieo nhân nào gặp quả ấy và sự trừng phạt khi mạo phạm đến ngài "Thiên Cẩu" luôn được khẳng định và lan truyền đến tận ngày nay".
Ông Mừng kể cho chúng tôi nghe câu chuyện từ thời ông bà ông kể lại: "Chuyện kể rằng, khi nhân dân thôn Phổ Trung lập miếu thờ "Thiên Cẩu" đã tạc một bức tượng “ngài” rất to bằng đá cẩm thạch đẹp đẽ, với dáng ngồi khoan thai, cao quý đầy uy nghiêm, miếu nằm ngay vị trí đắc địa của làng, hướng ra đường lớn. Trải qua mấy trăm năm, mặc cho những đổi dời của đất trời, tượng ngài "Thiên Cẩu" vẫn uy nghi, hoành tráng. Năm 1962, khi anh em Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Diệm thường xuyên đi lại từ khu căn cứ Tân Mỹ (Thuận An) lên TP. Huế khi đi qua làng Phổ Trung, lần đầu nhìn thấy bức tượng "Thiên Cẩu", Ngô Đình Diệm mê mẩn.
Là em trai Diệm, Ngô Đình Cẩn nổi tiếng là tên bạo chúa miền Trung gian ác, khét tiếng tàn bạo, bên cạnh đó y còn là tay chơi nổi tiếng, chỉ nhìn qua bức tượng chó đá bằng cẩm thạch, y biết rằng đây là báu vật quý bèn sai quân lính đập phá miếu, bứng mang đi trong sự xót tiếc của người dân Phổ Trung. Chỉ một năm sau ngày Ngô Đình Diệm cướp đi bức tượng ngài "Thiên Cẩu", ông bị ám sát và qua đời. Người dân Phổ Trung có niềm tin rằng, Ngô Đình Diệm bị ám sát vì đã gây ra những tội ác tày trời khiến người dân phải sống cuộc sống lầm than, phần khác họ cũng tin rằng chính vì mạo phạm đến ngài "Thiên Cẩu" nên Diệm có kết cục bi thảm như vậy".
Bên cạnh câu chuyện về sự mạo phạm của anh em nhà họ Ngô, ông Mừng còn kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện khác về sự trừng phạt của miếu thiêng: "Sau ngày miếu bị đập phá, dân làng Phổ Trung dù cuộc sống khó khăn, vẫn gom góp nhau được một số tiền lớn, xây lại miếu thờ “ngài” và đưa tiền cho một ông thợ kép ở trong thôn làm lại tượng ngài "Thiên Cẩu". Ngày qua ngày, khi ông thợ kép làm xong bức tượng dân làng ai cũng tức giận vì với số tiền lớn mà tượng "Thiên Cẩu" chỉ là viên đá lớn được tạo hình sơ sài, cẩu thả, phía dưới khắc một hàng chữ.
Vài ngày sau, khi vợ con ông thợ kép đi chợ ngang qua miếu thờ ngài, liền bị một hòn đá lớn từ đâu lăn tới nhằm vào khiến hai người ngã đùng, mẹ cụt tay, con gãy chân. Tối hôm ấy, khi ông thợ kép đang ngủ liền nhìn thấy bóng dáng một chú bạch cẩu chờn vờn quanh người, rồi phán: "Ngươi vì lòng tham mà bớt xén tiền của bà con cung kính lên ta, nay ta phạt vợ con ngươi không còn lành lặn". Ông thợ kép vì quá nể sợ liền hứa với bạch cẩu sẽ tạc lại một bức tượng mới, bức tượng còn tồn tại đến tận ngày nay”. Kể cho chúng tôi nghe xong về những giai thoại về ngài "Thiên Cẩu" ở làng, ông Mừng cũng cho biết thêm: “Rất khó để chứng minh được sự màu nhiệm trong tín ngưỡng của bà con trong thôn, nhưng khi có niềm tin, con người sẽ thoải mái và an tâm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn".
Theo Bảo Bình (Người đưa tin)
Dân làng vẫn truyền tai nhau tại gò đất bên cạnh thôn Tư bây giờ trước đây vốn là một bãi đất trống, nhưng sau một đêm mưa gió, sấm chớp đùng đoàng, đất trời rung chuyển, đến sáng ra đã thấy tượng Bà nằm sừng sững trên mặt đất, ...
Những ngọn núi linh thiêng trên mảnh đất di sản miền Trung thường gắn liền với những huyền thoại đẹp, mang âm hưởng tiêu dao. Tạm xa cuộc sống ồn ào nơi phố thị, bạn hãy thực hiện chuyến du hành tâm linh khám phá một trong số những ngọn núi linh thiêng, đó là Bạch Mã Sơn.
Đi từ Cha Lịnh, Mù Nú qua Khe Liềm (TT- Huế), nơi đâu cũng thấy dấu chân của những cán bộ kiểm lâm ngày đêm cắt rừng lội suối, bảo vệ những cánh rừng xanh của thượng nguồn Hương Giang, Ô Giang.
Nếu có dịp dạo chơi trên con đường Kim Long thênh thang, lộng gió; sau khi ghé thăm lăng tẩm, thưởng thức món bánh ướt nổi tiếng xứ Huế bạn đừng quên dừng chân ghé lại trà thất Kim Long-chỉ đơn giản là để thả mình trong một không gian nhẹ nhàng, thư thái và khám phá hương vị thơm ngon của những tách trà ấm nóng dậy hương.
Cho dù đã trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử, đấu trường Hổ quyền vẫn tọa lạc sừng sững, phảng phất chất uy nghi, và là một kiến trúc vô cùng quan trọng trong quần thể di tích đất cố đô Huế.
Ẩn mình giữa rừng cây cối um tùm của thôn Kim Ngọc (xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) là một túp lều đơn sơ bằng tranh tre nứa lá. Nương mình trong đó là một mái đầu đã bạc trắng vì sương gió, một gương mặt hằn đầy vết thời gian.
Theo ông Bernard Dorival, Giám đốc Bảo tàng Nghệ thuật quốc gia Pháp, Điềm Phùng Thị là một trong những nhà tạc tượng tài hoa nhất của thời đại ông đang sống.
Những năm qua, có không ít các tác phẩm văn học nghệ thuật viết về Ðại tướng Nguyễn Chí Thanh, một vị tướng văn võ song toàn, một nhà chỉ huy quân sự, một nhà lãnh đạo xuất sắc của Ðảng ta. Hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông (1-1-1914 - 1-1-2014), nhà văn Trần Công Tấn đã kể những kỷ niệm về Ðại tướng đã thôi thúc ông viết cuốn tiểu thuyết Nguyễn Chí Thanh - Sáng trong như ngọc một con người.
Hỏi chiến trường nào gắn bó nhất với nhà văn Xuân Thiều, chắc chắn đó là Trị Thiên - Huế, chiến trường thuộc loại ác liệt nhất của đất nước ta ở cả hai cuộc kháng chiến. Từ tuổi 20, ông đã trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường này, và rồi gần như trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ ông bám trụ ở đây. Nhất là trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Đây không phải quê hương của Xuân Thiều (ông người Đức Thọ - Hà Tĩnh), nhưng là quê hương của đời lính, là quê hương văn học của ông.
SHO - Nhân 62 năm ngày Truyền thống Mỹ thuật Việt Nam, 56 năm ngày thành lập Hội Mỹ Thuật Việt Nam; chiều ngày 07/12, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Mỹ thuật Việt Nam tại Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức Khai mạc phòng triển lãm Mừng ngày truyền thống Mỹ thuật Việt Nam 10/12 và Trao giải thưởng tác phẩm mỹ thuật xuất sắc năm 2013, diễn ra tại Trung tâm Văn hóa Phương Nam, số 15 Lê Lợi, Huế.
Dù nằm giữa thành phố Huế, nhưng Thủy Biều lại mang dáng dấp của một làng quê yên bình với khu vườn thanh trà ngát hương và những ngôi nhà rường hàng trăm năm tuổi.
Ngày 3/12, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế đã tổ chức họp báo giới thiệu các hoạt động nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1/1/1914 - 1/1/2014), tại Thừa Thiên - Huế (quê hương ông) và Hà Nội.
Ngày 01/12/2013, tại Nhà thờ Tam công Nguyễn Tri Phương (thôn Trung Thạnh, xã Phong Chương, huyện Phong Điền), Ủy ban nhân dân huyện Phong Điền đã tổ chức tưởng niệm nhân kỷ niệm 140 năm ngày mất của danh tướng Nguyễn Tri Phương (1873 - 2013.
Trải qua hàng trăm năm với bao biến thiên lịch sử, đến nay, cố đô Huế vẫn còn lưu giữ được những vết tích của một đấu trường độc nhất vô nhị trên thế giới - đấu trường Hổ quyền, đây không chỉ là nơi từng diễn ra những trận quyết chiến đẫm máu giữa hai loài voi - hổ, mà còn là cuộc thị uy quyền lực tuyệt đối của triều đại nhà Nguyễn.
Chiến tranh đã đi qua, nhưng hậu quả của nó vẫn nặng nề tại nhiều vùng đất A Lưới (Thừa Thiên Huế). Vẫn còn đó những làng "da cam"-nơi những đứa trẻ sinh sau chiến tranh đang trực tiếp gánh chịu ảnh hưởng của chất độc da cam; nhiều đứa trẻ sinh ra rồi mất đi hoặc chấp nhận sống dị dạng giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã.
Từ ngày 27 đến 29-11, Bộ CHQS tỉnh Thừa Thiên - Huế tổ chức diễn tập chỉ huy, tham mưu một bên hai cấp với sự tham gia của Ban CHQS 9 huyện, thị, thành và huy động các đơn vị chủ lực của LLVT tỉnh tiến hành thực binh đánh địch đổ bộ đường không. Dự chỉ đạo diễn tập có Thiếu tướng Nguyễn Chí Hướng, Phó tư lệnh Quân khu 4, ông Lê Trường Lưu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh…
Công trình đường tránh lũ dài 1,5km nối 2 thôn Tân Tô và Hòa Phong, thuộc xã Thủy Tân, thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên- Huế, có tổng vốn đầu tư gần 6 tỷ đồng. Thế nhưng do thi công kiểu “rùa bò”, đã khiến hàng trăm hộ dân sinh sống trên địa bàn rơi vào cảnh “khóc dở, mếu dở”...
Hiện tại nhiều hộ dân ở vùng ven đầm phá ở xã Lộc Thủy, huyện Phú Lộc, tỉnh TT Huế vẫn luôn sống trong tình trạng thiếu nước và mỏi mòn chờ nước sạch để sinh hoạt.
Vừa qua, đoàn Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam do bà Nguyễn Thị Kim Thúy, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam làm Trưởng đoàn đã về thăm và làm việc tại huyện A Lưới.
Bạn bè, học trò hay gọi Trần Nguyễn Khánh Phong (37 tuổi, nguyên giáo viên Trường THPT A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế) là “thầy Phong gàn”. Suốt 12 năm dạy học, anh dùng phần lớn thời gian, tiền bạc để sưu tập vật dụng, tư liệu của đồng bào Tà Ôi.