G.Verdi, cuộc đời bi tráng mang tâm hồn cách mạng

15:35 31/07/2008
NGUYỄN KHẮC THÀNHGiuseppe.Verdi sinh ngày 12 tháng 10 năm 1813 tại thị trấn Bosseto thuộc tỉnh Parma, Ý. Cha ông là người canh giữ quán trọ, mẹ làm nghề quay tơ. Khi còn là đứa trẻ lên 3, ông đã sớm thể hiện tài năng âm nhạc của mình.

Một nhà tổ chức của xứ đạo Pietro Baisrochi đã dạy nhạc cho ông. Ngay từ đầu, vì những lý do nào đó trong việc quản lý, ông đã không được chấp nhận vào học tại viện âm nhạc ở Milan . Mặc dù vậy, trong thời gian đó ông vẫn tiếp tục đến nhà hát thường xuyên để tự mình học các tác phẩm opera. Cơ hội lần thứ 2 đến với ông khi ông gặp được Antonio Barezzi, một thương gia giàu có, là chủ tịch giai cấp thượng lưu yêu âm nhạc tại Bosseto và từ đó trở thành người tài trợ chính cho toàn bộ hoạt động nghiên cứu âm nhạc của Verdi. Tại Milan, ông đã được nghe nhạc Viennese cổ điển, đặc biệt là những tác phẩm dành cho tứ tấu đàn dây. Chính sự giới thiệu đến tầng lớp quý tộc Milan và những mối quan hệ của nhà hát đã gây ảnh hưởng lớn đến vận mệnh của ông như 1 nhà soạn nhạc trẻ tuổi. Để cống hiến bản thân mình hơn nữa cho thanh nhạc, ngoài việc chỉ huy dàn hợp xướng và việc soạn những tác phẩm riêng cho từng nhạc cụ, ông hầu như đã dành toàn bộ thời gian để sáng tác những tác phẩm âm nhạc cho sân khấu. Vào tuổi 23, Verdi kết hôn với Margherita, là con gái của Antonio Barezzi. Họ sớm có được 2 người con, 1 trai, 1 gái. Sau khi nhận viết cho nhà hát La Scala ở Milan , vở nhạc kịch đầu tiên của mình, ông đã lần lượt mất đi 2 người con và vợ chỉ trong thời gian 3 năm ngắn ngủi. Verdi rơi vào tuyệt vọng. Ông đương đầu nỗi bất hạnh của mình bằng việc soạn những vở nhạc kịch mới. Thành công thực sự đầu tiên của ông là vở nhạc kịch NABUCCO đạt đến 57 buổi biểu diễn trong vòng 3 tháng mặc dù theo kế hoạch chỉ có 8 buổi. Ở tuổi 34, Verdi trở thành nhân vật nổi tiếng trên toàn thế giới về lĩnh vực âm nhạc. Các tác phẩm nhạc kịch của ông được công diễn trên toàn thế giới và các tác phẩm mới được hầu hết các nhà hát quan trọng nhất của Ý đón nhận, đưa vào biểu diễn. Viễn du đó đây nhiều nơi, cuối cùng ông cũng gặp và yêu Giuseppina Strepponi, một giọng nữ cao điêu luyện và nổi tiếng và trở thành vợ ông vài năm sau đó. G.Verdi đắc cử và trở thành nghị sỹ quốc hội khoá đầu tiên của Ý và chính ông là người đã sáng tác bài quốc tế ca để tham dự buổi khai mạc cuộc trình diễn quốc tế lại London . Tài năng âm nhạc kiệt xuất của ông đã đưa ông trở thành người anh hùng dân tộc. Ông sáng tác khoảng 30 tác phẩm nhạc kịch, trong đó 2/3 đã trở thành kiệt tác. Ông đã thành công trong việc điều chỉnh phong cách nhạc kịch của mình phù hợp với truyền thống âm nhạc lâu đời và vẫn trung thành với những di sản văn hoá của những nhà soạn nhạc người Ý khác như Rossini, Donizetti. Trong những tác phẩm của mình, ông luôn phát huy hết khả năng trình diễn của dàn nhạc cũng như buộc các ca sỹ phải biểu diễn hết mình và phải tạo được sự chú ý sâu sắc ở bộ phận công chúng thưởng ngoạn. Cái chết của Verdi đã khép lại một thời đại âm nhạc ở Ý, nhưng đám tang ông cũng là thời điểm bắt đầu cho sự thăng hoa của những tác phẩm của ông, những tác phẩm trở nên nổi tiếng chưa từng có, vẫn sống mãi và tồn tại cho đến hôm nay như trước đây chưa từng được biết đến trên toàn thế giới.
Không như Mozart, Bethoven hay Tchaikosky, những người đạt đến những tác phẩm ở đỉnh cao bất kỳ thể loại âm nhạc cổ điển nào. Ơ Verdi, khuynh hướng chính của ông là viết cho nhạc kịch. Tác phẩm của Verdi đánh dấu cho sự hưng thịnh nhất của nền ca kịch Ý và những tác phẩm của ông chính là những thành tựu xuất sắc nhất của nền nghệ thuật hiện thực thế giới. Các tác phẩm của Verdi tràn ngập nguồn cảm hứng anh hùng cách mạng. Âm nhạc của ông đã phục vụ cho sự đấu tranh của nhân dân và trở thành ngọn cờ của cuộc đấu tranh này, những giai điệu trong nhạc kịch của ông là những bài ca cách mạng. Tính sân khấu rõ ràng, sự sôi động của các màn, cảnh, sự sắc bén của tính cách nhân vật, tài nghệ tuyệt vời của phương thức cùng diễn tấu, sự phong phú dồi dào của giai điệu, tính màu sắc và sức truyền cảm của các bài hát, đó chính là những nét đặc biệt của “bút pháp” Verdi, nhà soạn kịch âm nhạc vĩ đại của Ý. Bằng việc kết hợp những đặc trưng truyền thống với sự dũng cảm đi tìm cái mới, Verdi đã mở rộng chân trời của trường phái ca kịch dân tộc.
Trong gần 30 tác phẩm nhạc kịch, cần phải kể đến những tác phẩm như NABUCCO, DON CARLOS, RIGOLETTO, LA TRAUVIATA, AIDA... nhưng vở nhạc kịch hoành tráng nhất của Verdi là AIDA được trình diễn lần đầu vào năm 1871 tại Cairo, Ai Cập.

Với thiên hướng bản năng về âm nhạc, Verdi là người tạo dựng nền văn hoá nước nhà. Sinh ra từ địa vị thấp hèn và nghèo khổ, sự cống hiến của ông vượt ra khỏi địa vị của mình, chính ông là biểu tượng của nước Ý. Từ trước đến nay, chưa từng có 1 nhạc sỹ nào tạo nhiều cảm hứng cho nước mình, ông thực sự là hiện thân của nền âm nhạc opera truyền thống của Ý và năm nay nước Ý kỷ niệm 100 năm ngày mất của ông. Bản hợp xướng “Va pensiero” dành cho những người yêu nước trong những năm 1840, nói về những người nô lệ Hebrew khóc thương cảnh nước mất nhà tan, được hàng trăm người cùng hát tiễn đưa linh hồn nhà soạn nhạc Verdi về thế giới bên kia năm 1901.
N.K.T

(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VĂN CAO

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố  Nguyễn Thượng Hiền.

  • TRƯƠNG QUANG LỤC  

    Lần đầu tiên tôi quen biết nhạc sĩ Tôn Thất Lập là tại thành phố Hồ Chí Minh sau ngày thống nhất đất nước. 

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Miền núi phía Tây Bắc huyện Minh Hóa ở Quảng Bình có nhiều nhóm tộc người cùng sinh sống như nhóm người Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A Rem (gọi chung là tộc người Chứt), và tộc người Nguồn (trước kia gọi là người bản địa Kẻ Sạt, Kẻ Xét, Kẻ Trem, Kẻ Pôộc bộ Việt Thường, nước Văn Lang).

  • TRÀ AN    

    Người ta gọi Trịnh Công Sơn là Sứ giả tình yêu, Kẻ du ca về phận người, hay Người tình mọi thế hệ… nhưng có lẽ với tên gọi mà nhạc sĩ Văn Cao đặc biệt yêu mến dành tặng ông: “Con người thi ca” thì chức danh ấy phù hợp hơn cả.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG  

    I. Vài nét về dân ca Tà Ôi
    Trong hệ thống phân loại, dân ca Tà Ôi có đến 9 làn điệu gồm: Cà lơi, Ba bói, Cha chấp, Xiềng, Ân tói, Babởq, Ra rọi, Roin, Ru akay. Mỗi làn điệu đều có những quy định, cách thức thể hiện khác nhau.

  • Hoàng Nguyễn hiện là giảng viên thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Anh bước vào nghề hát từ năm 1968. Từ 1973 đến 1978 học thanh nhạc Nhạc Viện Hà Nội, sau đó chuyển về giảng dạy ở trường âm nhạc Huế. Năm 1981 đến 1985 học thanh nhạc tại Bungari. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, Hoàng Nguyễn đã góp phần quan trọng vào thành công buổi trình diễn thanh nhạc Thính phòng đầu tiên tại Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế.

  • NGUYÊN CÔNG HẢO  

    Sau Đại hội tháng 01 năm 2013, vừa ổn định xong công việc tôi được nhạc sĩ Nguyễn Trung, Chi hội trưởng Chi hội Âm nhạc của tỉnh Bắc Ninh mời đi dự chương trình Liên hoan âm nhạc các tỉnh, thành phố kết nghĩa tại thành phố Huế vào tháng 4 năm 2013.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).

  • Thất lạc suốt 150 năm - và bị hiểu lầm là tác phẩm của em trai bà – một bản nhạc táo bạo và phức tạp của Fanny Mendelssohn mới đây đã nhận được sự chú ý xứng đáng dù muộn màng. Hậu duệ cách bà sáu thế hệ kể lại câu chuyện.

  • Theo thông tin mới nhận được từ phía Cục NTBD, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã chính thức được cấp phép lưu hành và phổ biến rộng rãi trên toàn quốc.

  • Gần 1 tháng, sau khi Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) có công văn yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 ca khúc sáng tác trước năm 1975, công chúng yêu nhạc vẫn chưa hết băn khoăn. Mới đây, việc tìm thấy bản gốc ca khúc “Con đường xưa em đi” lại càng khiến dư luận băn khoăn hơn: Mất bao lâu để nhà quản lý hoàn tất việc đối chiếu giữa bản gốc và dị bản của ca khúc? Sau sự việc này, việc xác minh dị bản ca khúc nói chung sẽ được thực hiện ra sao?

  • Bà Kha Thị Đàng - vợ cố nhạc sỹ Châu Kỳ đã bật mí về con đường mòn xuyên qua một cánh đồng lúa mà bà cho rằng chính con đường này đã tạo cảm hứng cho chồng bà và nhà thơ Hồ Đình Phương viết lên ca khúc “Con đường xưa em đi”.

  • Nói đến văn hóa Quảng Bình, không thể không nhắc đến hò khoan Lệ Thủy. Với lối hát dung dị, mộc mạc và gần gũi, làn điệu dân ca này là món ăn tinh thần bao đời nay của người dân nơi đây. Những ngày qua, hò khoan Lệ Thủy đã vang lên giữa Thủ đô, tạo điểm nhấn trong chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”.

  • Vừa qua UNESCO đã chính thức ghi danh công nhận di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

  • Từng đứng trước nguy cơ mai một, nhưng giờ đây, những làn điệu Then không chỉ đã dần tìm lại được chỗ đứng của mình mà còn đang trên hành trình trở thành di sản văn hóa của nhân loại. Đó chính là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của các cấp, chính quyền và các nghệ nhân, những người tâm huyết với Then.

     

  • Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

  • Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn giải thích việc gửi văn bản gửi Sở VH-TT TP HCM yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 bài hát đã cấp phép phổ biến để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan.