Edgar Poe với Hàn Mặc Tử

10:55 23/02/2009
NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.


I. Edgar Poe ở Việt Nam .

1.
Edgar Poe
(1809 - 1849) là nhà văn Mỹ đầu tiên có tác phẩm được dịch sang tiếng Việt. Bài thơ Con quạ (The Raven) của ông được Nguyễn Giang dịch qua bản tiếng Pháp, được in trong cuốn Danh văn Âu Mỹ năm 1936 và là một bản dịch ra văn xuôi. Đến năm 1941, cũng chính Nguyễn Giang dịch và xuất bản một tập truyện kinh dị của Edgar Poe. Năm 1944, Vũ Ngọc Phan dịch và xuất bản tập Truyện kỳ lạ của Edgar Poe.
Trong bộ phận sách dịch từ phương Tây giai đoạn này, chúng ta biết rằng chủ yếu là sách Pháp, việc Edgar Poe được chú ý dịch như vậy có thể xem là một hiện tượng. Nước Mỹ, đối với đại bộ phận dân chúng Việt Nam bấy giờ, là một xứ xa xôi tận bán cầu Tây. Tuy vậy, đối với tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, công chức thì nước Mỹ không đến nỗi quá xa lạ. Nhóm độc giả này thuộc loại có học vấn cao ở nước ta giai đoạn này. Họ là những người giỏi Pháp văn, và họ đọc các tác phẩm văn học Mỹ qua các bản dịch tiếng Pháp. Điều này các tầng lớp xã hội khác không làm được.

Edgar Poe rất được đề cao ở Pháp trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX. Ở Pháp sự nghiệp văn học của Edgar Poe được dịch và giới thiệu rất đầy đủ, và ông được xem là một trong những nhà khai sáng ra thơ hiện đại, mà trực tiếp là trường phái tượng trưng Pháp. Về văn xuôi, Edgar Poe là người đã đặt nền móng cho truyện trinh thám - hình sự, truyện kinh dị và là “một trong số thuỷ tổ của văn học viễn tưởng”. Như vậy, chủ yếu qua trung gian là Pháp ngữ mà độc giả Việt Nam bấy giờ biết đến Edgar Poe và biết đến vị thế của ông trong văn học phương Tây. Đó là một tiền đề cho sự tiếp nhận Edgar Poe ở nước ta.

2.
Ảnh hưởng là một quy luật phổ biến trong giao lưu văn hoá. Trong văn học, việc tiếp nhận và tiếp biến những yếu tố bên ngoài là điều không thể thiếu để phát triển. Tuy vậy, quá trình tiếp nhận này là hết sức phức tạp. Một nhà văn bao giờ cũng có những ảnh hưởng đến các nhà văn khác, nhưng mức độ cũng khác nhau. Có người chịu ảnh hưởng trực tiếp, có người chịu ảnh hưởng gián tiếp. Ngay ảnh hưởng gián tiếp có khi cũng trải qua mấy lần khúc xạ. Trong bài Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học, Viện sĩ Hoàng Trinh đã nêu ra hai trường hợp tiếp nhận trong văn học: “Một quan hệ song phương không cân đối” và “Một quan hệ song phương tương đối cân đối”{1}. Ở trường hợp thứ nhất, sự tiếp nhận chỉ thuần tuý là một ý tưởng nào đó được gợi đến. Ở trường hợp thứ hai, đối tượng được tiếp nhận là một nhà văn có ảnh hưởng sâu rộng và chủ thể tiếp nhận qua sự khai thác các giá trị đã tạo ra những giá trị mới, “cả hai phía phát ra và tiếp nhận trong các hoàn cảnh khác nhau đều có vai trò sáng tạo và sản sinh rất quan trọng của mình”. Theo chúng tôi, những tác động của Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử thuộc trường hợp thứ hai.

Trong một số công trình nghiên cứu và các bài viết được in trước năm 1945 ở Việt Nam đã đề cập đến Edgar Poe, đó là Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Đọc Tiểu thuyết Việt Nam cận đại của Đinh Gia Trinh, Lời tựa của Khái Hưng cho tác phẩm Vàng và máu (Thế Lữ)... Vào những năm 80, nhà thơ Chế Lan Viên trong các bài giới thiệu thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê cũng nhắc đến Edgar Poe. Ở những mức độ khác nhau và tuy còn rời rạc, thoáng qua, các tác giả trên đã nêu ra những ảnh hưởng của Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử và một số người khác. Đó chính là những gợi ý quan trọng cho chúng tôi trong bài viết này.

II. Ảnh hưởng của Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân viết: “Hàn Mặc Tử rất nặng ảnh hưởng Baudelaire và qua Baudelaire ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe”; và Hàn Mặc Tử đã đi “từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe “[2,31]. Như vậy, ảnh hưởng của Poe đến Hàn MặcTử là ảnh hưởng gián tiếp, thông qua Baudelaire.

1.
Thơ là phần tâm huyết nhất của con người nghệ sĩ trong Poe. Thơ là “tiếng lòng” là “cung đàn muôn điệu” của hồn ông, là của thế giới riêng ông. Những thi phẩm nổi tiếng của Edgar Poe là Cái chuông (The Bell). Cho Helen (To Helen), Con quạ (The Raven, Annabel Lee), Thành phố trong biển cả (The City of in the Sea)...
Thơ của Edgar Poe bi thảm và tượng trưng, nổi bật bởi âm thanh và nhịp điệu. Với trí tưởng tượng phong phú và có phần kinh dị, ông đã soi sáng những khía cạnh sâu kín của tâm hồn, những cái “bất định, ốm yếu và độc ác trong con người”, Edgar Poe chỉ quan tâm tới một nghệ thuật thi ca toàn mỹ. Trong thơ, Edgar Poe không hễ chú ý đến việc giải thích bàn luận các vấn đề xã hội hay giáo huấn con người, điều mà người ta thường gặp trong các tác phẩm của các nhà văn Mỹ thời kỳ này. Khi bàn về mục đích thơ ca, Edgar Poe viết: “Cứu cánh của nghệ thuật là cái đẹp, chứ không phải là sự thật...”, và “sự u buồn sầu mộng là một giọng thơ chính đáng nhất, cái chết của một người đàn bà đẹp là đề tài nên thơ nhất trong thế gian này”.

2. Các nhà thơ hiện đại Pháp như Baudelaire, Mallarmé, Valéry đã ca ngợi Poe là một thiên tài. Valéry quả quyết rằng Poe là một người sáng suốt nhất trong số các nhà lý luận đương thời khi bàn về nghệ thuật thi ca. Baudelaire đánh giá Poe là “nhà văn ưu tú nhất” và có “phong cách độc đáo một cách kỳ diệu”. Khi nhận xét về mối quan hệ giữa Poe và thơ ca hiện đại Pháp, sách Lược sử các nền văn chương viết: “Không có gì ngạc nhiên khi thấy Poe đã ảnh hưởng đến Baudelaire và Mallarmé, những người đã dịch tác phẩm của ông... Ông xứng đáng là nhà văn Mỹ đầu tiên có tầm cỡ thế giới” [3,108].
Tác động của Poe đối với Baudelaire và các nhà tượng trưng Pháp trước hết là ý thức vềmột nền văn học mới gắn với khái niệm “tính hiện đại”. Đây là ý thức thẩm mỹ về thế giới hiện đại, về thì hiện tại của tồn tại. Việc xuất hiện, hình thành những phẩm chất của tư duy thơ hiện đại là “sự phá bỏ mọi hình thức chết cứng ngăn cản sự tiến hoá của nghệ thuật, của những tình cảm, của những tư tưởng, của những phong tục” [4,21].

Trung thành với Edgar Poe, Baudelaire đã: “cắt đứt với truyền thống những lời cầu kỳ hoa mỹ dài dòng của chủ nghĩa lãng mạn” [5,299]. Công trình Suy luận về kết cấu của Poe đã đưa đến cho Baudelaire một nhận thức mới về tính thơ để định hướng cho sự sáng tạo. Đặc trưng đích thực của thơ là tượng trưng, cho nên không phải nhà thơ sáng tạo ra một thế giới giả, mà khám phá ra một “siêu hiện thực” trong thế giới”, đem lại cho tinh thần một sức mạnh đặc biệt khả dĩ nhìn thế giới không phải ở chỗ nó hiện ra, mà ở chỗ nó khải thị, tỏ lộ ra bằng những loại suy bất ngờ giữa những cảm giác và trong sự tương hợp sâu hơn nữa giữa cái cảm tính và cái tinh thần” [6,28].
Nếu thơ lãng mạn biểu hiện chủ yếu bằng hình tượng, hình ảnh tương phản thì thơ tượng trưng biểu hiện mối quan hệ bên trong giữa con người, sự vật với cái vô tận trong sự tương hợp. Chẳng hạn, tương hợp về cảm giác: ánh sáng - bóng tối, về ý niệm: hư -thực, về tâm trạng: cô đơn - tuyệt vọng, về liên tưởng: người đàn bà đẹp - cái chết trẻ, về tâm tính: cái độc ác - sự bất định, ốm yếu, về không gian: ngang - dọc, về màu sắc: đen - trắng, về màu vị: xanh - ngọt, về tu từ: âm thanh - nhịp điệu... Đó là mỹ học của Baudelaire, đã thấm sâu không chỉ vào thơ hiện đại Pháp mà cả thơ hiện đại trên khắp thế giới.

3. Sự gặp gỡ với Baudelaire, Poe là con đường giao hoà để thăng hoa trong đời thơ Hàn Mặc Tử.
Với thơ Đường, Hàn Mặc Tử, có Lệ Thanh thi tập. Dẫu có một số bài hay thì Lệ Thanh vẫn chìm trong biển thơ Đường của bao nhiêu người qua bao nhiêu đời đã đổ tràn. Với khuynh hướng tượng trưng, Hàn Mặc Tử có Đau thương, một kiệt tác trong nền thơ hiện đại. Cùng với Điêu tàn (Chế Lan Viên), Tinh huyết (Bích Khê), Đau thương đã tạo ra một dòng mới trong thơ Việt .
Hàn Mặc Tử bắt đầu đến với trường phái tượng trưng là những năm 36 -37, thời gian ông sinh hoạt với nhóm thơ Bình Định. Hàn Mặc Tử đã nghiên cứu rất kỹ về Baudelaire và tìm thấy ở đó một kiểu mẫu cho mình. Ông khẳng định: “Thơ văn không thể dung hoà với khoa học và lý luận (hoặc tôn giáo cũng thế) và thơ văn không thể lấy chân lý làm chủ đích được, thơ chỉ là thơ” (Quan niệm thơ). Từ đó “Thơ của ông bước vào trận xoáy lốc, hoà trộn giữa đời người đời thơ; giữa sự cảm nhận tận đáy lòng về khổ đau và hạnh phúc; giữa cứu cánh cầu mong những thứ siêu hình và những khát vọng riêng tư của chính cuộc đời sống hết mình trong bệnh tật, trong đắm đuối thi ca và trong những cảm nhận linh thiêng chỉ ông mới có giữa cõi huyền vi và cuộc đời trần thế” [7,61].

Cũng như Poe và Baudelaire, Hàn Mặc Tử đã mở ra một cách nhìn và cảm nhận riêng ở những con người có hoàn cảnh không bình thường. Ở họ, cái đau khổ thể xác và cái đau tâm hồn cài vào nhau, giằng xé cuộc đời, để từ đó trào ra những luồng thơ. Thơ Poe, Baudelaire, Hàn Mặc Tử đều bị ám ảnh bởi một thế giới siêu thoát, kinh dị, đầy chết chóc, lạnh lẽo với máu, xương, nước mắt... Đó là thế giới của những nỗi đau khắc khoải khôn nguôi, nơi con người đánh mất đi niềm vui sống mà bệnh tật và cô đơn đã gặm nhấm tâm hồn từ thuở còn thanh xuân. Đó là thế giới đã bị vỡ ra thành muôn mảnh mà không bao giờ còn ghép lại được. Tâm trạng này cũng là hệ quả của sự đổ vỡ đi đến hoài nghi và phủ nhận đối với lý trí trong văn học phương Tây. Từ giữa thế kỷ XIX, thơ đã xác lập vị thế của mình trong hệ thống tư duy bất thuận lý, chống lại những quan niệm về kiến thức phổ quát và tìm đến một thế giới bí ẩn, siêu hình chỉ có lĩnh hội bằng mặc khải và thần cảm. Đây là những ví dụ về sự gần gũi trong tư duy của họ:
Poe :     Những vầng trăng thượng tuần khổng lồ đã làm tắt những vì sao
            Bởi hơi thở thoát ra từ bộ mặt xanh xao của chúng.
                                                            (Thành phố trong biển cả)
Baudelaire:        Đôi khi lả lướt mơ màng, ả hằng trên mặt đất
                        Để một giọt lệ từ mắt nàng kín đáo nhẹ rơi
                        Một nhà thơ kính cẩn, ghét giấc ngủ của con người
                        Đưa bàn tay hứng giọt lệ mờ xanh nhạt
                        Óng ánh năm màu như một hòn ngọc thạch
                        Và dấu kín trong trái tim xa con mắt mặt trời.
                                                            (Nỗi buồn của mặt trăng)
Hàn Mặc Tử:    Ánh trăng mỏng quá không che nổi
                        Những vẻ xanh xao của mặt hồ
                        Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
                        Những lời năn nỉ của hư vô.
                                                            (Huyền ảo)

4. Mối quan hệ với Baudelaire và Poe đã giúp Hàn Mặc Tử định hình một kiểu tư duy thơ và trên cơ sở đó đã sáng tạo một “thế giới hình tượng nghệ thuật kỳ dị” chưa từng có trước đó trong thơ Việt Nam . Nó lạ đến nỗi Hoài Thanh đã phải thốt lên rằng: “Ngót một tháng trời tôi đã đọc Hàn Mặc Tử. Và tôi đã mệt lả... Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến càng đi xa càng ớn lạnh” [8,196].
Đọc thơ Hàn Mặc Tử không chỉ cảm nhận, phân tích, bình phẩm, đánh giá theo những quy chuẩn thông thường. Ở các câu thơ “trăng nằm sóng soãi trên cành liễu”, “người trăng ăn vận toàn trăng cả”, “ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ”, “ta nằm trong vũng trăng đêm ấy”, “thuyền ai đậu bến sông trăng đó”... ta thấy từ vẫn là những từ đó, trăng vẫn là vầng trăng đó, thế nhưng lại thấy lạ vô cùng, biến hoá vô cùng.

Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói “siêu nghĩa”, các từ được dùng trong cấu trúc câu thơ và bài thơ bao giờ cũng tương ứng với tâm trạng, có sức biểu hiện cao độ và sâu sắc, từ một từ này có thể gợi nên nghĩa của một từ khác. Có thể nói, Hàn Mặc Tử đã làm một cuộc cách mạng ngôn từ trong thơ tiếng Việt.
Hàn Mặc Tử đã cùng những người cùng thế hệ với ông rời bỏ bến bờ cũ để tìm những dòng chảy mới. Trên hành trình đó, Hàn Mặc Tử đã tiếp cận với nhiều nguồn thơ, nhưng Baudelaire và Poe là những người mà Hàn Mặc Tử đã tiếp nhận nhiều nhất. Đề cập đến ảnh hưởng của Poe đối với Hàn Mặc Tử thông qua Baudelaire là một điểm nhìn để hiểu kỹ hơn về những trải nghiệm và những sáng tạo lớn lao của Hàn Mặc Tử. Và theo chúng tôi, Poe không chỉ ảnh hưởng đến Hàn Mặc Tử mà còn ảnh hưởng đối với thơ Bích Khê, Chế Lan Viên và văn xuôi Thế Lữ... Bài viết này mới chỉ là những suy nghĩ bước đầu về vấn đề này.
N.H.D

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

 



---------------------
[1]. Hoàng Trinh - Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học. Tạp chí Văn học số 4, 1980.
[2]. Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội, 1998.
[3]. Pierre Gioan (chủ biên) - Lược sử các nền văn chương, tập V.Libraire Aristite, Paris 1961.
[4]. Trần thị Mai Nhi - Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam, giao lưu, gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994.
[5]. Đặng Thị Hạnh - Văn học Pháp thế kỷ XIX, Nxb Ngoại văn, Hà Nội, 1990.
[6]. Trần Thị Mai Nhi: Sđd.
[7]. Ngô Văn Phú - Hàn Mặc Tử một tâm hồn thơ dị biệt (trong tuyển tập Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995.
[8]. Hoài Thanh - Hoài Chân.Sđd.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.

  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)