Trong những năm qua, du lịch cộng đồng (DLCĐ) đã đem đến nhiều tác động tích cực cho xã hội, mang lại các lợi ích về văn hóa, kinh tế và môi trường. Tuy nhiên, do chưa có chiến lược phát triển bài bản, các mô hình du lịch cộng đồng ở Việt Nam vẫn chủ yếu hoạt động theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ với chất lượng phục vụ chưa cao.
Du khách đến với Tả Van (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai).
Một đi không trở lại
Theo số liệu thông kê, DLCĐ ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự tham gia của cộng đồng địa phương đối với loại hình du lịch này còn kém hiểu quả. Mới đây, Diễn đàn mô phỏng Nghị viện trẻ tổ chức buổi tọa đàm “Tăng cường sự tham gia có hiệu quả của cộng đồng địa phương trong phát triển DLCĐ ở Việt Nam” nhằm tìm ra hướng phát triển cho DLCĐ.
Tại tọa đàm, theo nhận định chung hiện nay nhận thức của cộng đồng thấp, kỹ năng làm du lịch chưa có, dẫn đến đánh mất lợi ích chính đáng của cộng đồng địa phương, và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cũng như làm mai một bản sắc văn hóa. Hiện nay lực lượng làm du lịch chưa nhạy bén trong việc tiếp cận chính sách phát triển DLCĐ. Chưa có các quy định hay quy tắc ứng xử trong du lịch.
Điển hình như trường hợp làng Trà Nhiêu (Quảng Nam) khi triển khai dự án cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, các nhóm sản phẩm dịch vụ, làng nghề truyền thống cũng được dự án du lịch hỗ trợ, quy hoạch đồng bộ. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động do thiếu cơ chế quản lý và những quy định ràng buộc trong việc phân chia lợi ích giữa các bên liên quan nên doanh thu không tới cộng đồng. Nguyên nhân là do chưa có quy định về mức phí phải trả cho cộng đồng nên doanh thu phần lớn thuộc về các doanh nghiệp lữ hành.
Bên cạnh đó, hiện nay cộng đồng địa phương chưa ý thức được vai trò, quyền lợi của mình dẫn tới thiếu định hướng phát triển trong tương lai. Đơn cử như dự án tại làng DLCĐ Mỹ Sơn sau khi dự án kết thúc do cộng đồng địa phương không có đủ chuyên môn để quảng bá, kết nối, duy trì hoạt động du lịch vì vậy dự án hiện nay không thể tiếp tục triển khai. Dẫn tới vấn đề bảo vệ môi trường trong việc phát triển du lịch không được coi trọng.
Ngoài ra, về sự tham gia của cộng đồng địa phương trong DLCĐ còn mờ nhạt, tự phát, manh mún. Cộng đồng địa phương chưa đóng vai trò chủ chốt trong DLCĐ. Hiện nay các mô hình DLCĐ còn chưa chủ động trong việc tìm kiếm và gây dựng nguồn vốn. Các mô hình chỉ được đưa vào thực tế khi có nguồn vốn bên ngoài làm thiếu đi sự chủ động trong việc quản lý du lịch tại địa phương. Thiếu nguồn vốn còn dẫn tới cộng đồng địa phương không có tiếng nói trong mô hình hoạt động kinh doanh dẫn tới tâm lý đi làm thuê.
Hiện nay các cộng đồng địa phương chỉ tham gia vào các hoạt động sản xuất thiếu sự quan tâm vào các hoạt động quy hoạch, định hướng phát triển du lịch của chính cộng đồng. Các cộng đồng không có đủ chuyên môn hoặc không đủ quyền hạn để tham gia vào quá trình quyết định. Sự tham gia của cộng đồng địa phương thường có quy mô vừa và nhỏ bên cạnh đó kinh doanh du lịch còn bị chi phối bởi yếu tố mùa vụ. Vì vậy mô hình thường không tập trung và mang tính chất ngắn hạn, không được quan tâm và đánh giá đúng mực từ phía các cộng đồng địa phương.
Tìm hướng phát triển bền vững
Với những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên đã kéo theo hệ lụy là nhiều du khách “một đi không trở lại”, nguồn lợi du lịch không những không được khai thác hết mà còn đứng trước nguy cơ mai một, lai tạp bản sắc. Để tháo gỡ thực trạng này, bên cạnh sự phối hợp của các cơ quan nhà nước thì bản thân cộng đồng dân cư cần hiểu rõ mục đích của việc phát triển DLCĐ cũng như chủ động tham gia vào quy trình nâng cao, năng lực trình độ, tích cực phối hợp cùng các bên liên quan tuyên truyền lan rộng các chương trình đào tạo và đóng góp tri thức địa phương để xây dựng nội dung đào tạo phù hợp.
Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Quang Trung- Chi hội Hướng dẫn viên Du lịch Việt Nam (VTGA), Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam cho rằng, DLCĐ muốn phát triển cần tôn trọng nguyên lý “4 chung, 3 nhà”. Trong đó, “4 chung” ở đây là chung văn hóa, chung cộng đồng, ăn chung, làm chung. Vấn đề tồn đọng từ nhiều năm nay ở mô hình này đó là chưa có sự phân chia quyền lợi rõ ràng giữa các bên, dẫn đến các hoạt động còn chưa thực sự chuyên nghiệp và đồng bộ. Cũng theo ông Trung, để du lịch cộng đồng có thể phát triển đúng như định hướng cốt lõi của nó, cần giới hạn lượng khách tham quan. Không thể vừa phát triển ồ ạt, vừa giữ được các bản sắc văn hóa trong đời sống cộng đồng.
Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Lệ Quyên- Trợ lý Dự án tại Quỹ Văn hóa Hà Nội cho rằng, DLCĐ không thể độc lập, tự thân phát triển mà cần có cả một hệ sinh thái. “3 chân kiềng” của DLCĐ là “Du lịch cộng đồng giúp người dân thân thiện hơn với môi trường; Giúp mọi người gần gũi với nhau hơn về mặt văn hóa – xã hội; Giúp người dân có nguồn kinh tế tốt hơn”. DLCĐ không hề tiêu cực, nhưng tất nhiên như mọi hoạt động khác của đời sống, trong quá trình phát triển, nó luôn đi kèm với những hệ lụy. Đó là điều mà những chính sách cần lưu tâm để có những điều chỉnh cho phù hợp.
Có thể thấy, du lịch nói chung và DLCĐ đồng nói riêng đã, đang và sẽ mang lại những nguồn lợi vô cùng to lớn cho xã hội, kinh tế, môi trường... của Việt Nam. Để đảm bảo các mô hình du lịch cộng đồng hoạt động lâu bền và mang lại những giá trị cao nhất, cần phải nâng cao, thúc đẩy sự tham gia có hiệu quả của chính cộng đồng địa phương vì cộng đồng địa phương là nền móng của loại hình du lịch này.
Theo Minh Quân - ĐĐK
Trong tháng Năm này, cả nước tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Dư luận đang lo lắng về việc rớt giá thê thảm của khối C. Khối C đã thật sự bị sĩ tử thẳng thừng từ chối, điều đó cho thấy rằng xã hội đang quay lưng… đằng sau đó có những hệ lụy gì?
Theo định hướng phát triển hiện nay, Huế sẽ là đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân giữ vai trò động lực cho Thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.
Thuở xưa, mỗi làng có một hương ước, nhiều làng có hương ước thành văn nhưng cũng có làng có hương ước bất thành văn.
Khi nhắc đến xứ sở Phù Tang, điều đầu tiên thế giới nghĩ đến là một Nhật Bản thần kỳ, giàu mạnh về kinh tế và điều thứ hai chắc chắn sẽ là sự đối mặt thường xuyên với thảm họa thiên tai.
“Có động đất ở Nhật Bản!” Tôi đang loay hoay xếp lại chồng sách vở ngổn ngang trên bàn thì nghe chồng tôi, giáo sư Michimi Munarushi người Nhật mới về Việt Nam 3 hôm trước báo.
Không có một vùng đất thứ hai nào trên dải đất hình chữ S của Việt Nam có vị trí hết sức đặc biệt như Huế. Nơi đây, từ 1306, bước chân Huyền Trân xuống thuyền mở đầu cho kỷ nguyên mở nước về Nam, Thuận Hóa thành nơi biên trấn.
I. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới đã trở thành quyết tâm chính trị của cán bộ đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế.
Thăng Long - Hà Nội, thủ đô, trái tim của cả nước, qua ngàn năm phát triển, đã trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, là niềm tự hào của cả dân tộc.
Sau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở quy mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.
Thừa Thiên Huế - vùng đất chiến lược nối giữa hai miền Bắc - Nam từng là “phên dậu thứ tư về phương Nam” của Đại Việt, nơi “đô hội lớn của một phương”; từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của đất nước dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ và triều Nguyễn (1802 - 1945); là miền đất địa linh nhân kiệt gắn liền với những tên tuổi lớn trong hành trình lịch sử của dân tộc, của ngàn năm Thăng Long...
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trong vài năm tới theo tinh thần kết luận số 48 của Bộ Chính trị đã mở ra một mốc mới mang tính lịch sử. Với kết luận này, đặt ra nhiệm vụ cho Huế phải trở thành trung tâm của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.
Ôn cố để tri tân, Festival Huế 2010 là lần tổ chức thứ VI. Qua 6 lần tổ chức, nhìn lại những ngày liên hoan văn hóa Việt Pháp (1992) do thành phố Huế phối hợp với Codev tổ chức, anh chị em văn nghệ sĩ Huế lúc bấy giờ phấn khích lắm vì đây là cơ hội tiếp xúc với thế giới dù chỉ mới có một nước Pháp. Họ thấy cần có trách nhiệm phải tham mưu để xây dựng chương trình cũng như chủ động tham gia hoạt động trong lĩnh vực của mình.
Như thường lệ, hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế tiến hành xét tặng thưởng cho các tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc.
Chúng ta đã đi hết gần chặng đường 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà sự phát triển song hành giữa cơ hội và thách thức đan xen.
(Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới diễn ra sôi động trên đất nước Việt Nam, sức sống của vùng văn hoá Huế sau những năm dài tưởng chừng đã ngủ yên chợt bừng dậy và lấp lánh tỏa sáng.
Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.