Du lịch cộng đồng: Không thể tự thân phát triển

14:44 09/01/2019

Trong những năm qua, du lịch cộng đồng (DLCĐ) đã đem đến nhiều tác động tích cực cho xã hội, mang lại các lợi ích về văn hóa, kinh tế và môi trường. Tuy nhiên, do chưa có chiến lược phát triển bài bản, các mô hình du lịch cộng đồng ở Việt Nam vẫn chủ yếu hoạt động theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ với chất lượng phục vụ chưa cao.

Du khách đến với Tả Van (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai).

Một đi không trở lại

Theo số liệu thông kê, DLCĐ ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự tham gia của cộng đồng địa phương đối với loại hình du lịch này còn kém hiểu quả. Mới đây, Diễn đàn mô phỏng Nghị viện trẻ tổ chức buổi tọa đàm “Tăng cường sự tham gia có hiệu quả của cộng đồng địa phương trong phát triển DLCĐ ở Việt Nam” nhằm tìm ra hướng phát triển cho DLCĐ.

Tại tọa đàm, theo nhận định chung hiện nay nhận thức của cộng đồng thấp, kỹ năng làm du lịch chưa có, dẫn đến đánh mất lợi ích chính đáng của cộng đồng địa phương, và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cũng như làm mai một bản sắc văn hóa. Hiện nay lực lượng làm du lịch chưa nhạy bén trong việc tiếp cận chính sách phát triển DLCĐ. Chưa có các quy định hay quy tắc ứng xử trong du lịch.

Điển hình như trường hợp làng Trà Nhiêu (Quảng Nam) khi triển khai dự án cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, các nhóm sản phẩm dịch vụ, làng nghề truyền thống cũng được dự án du lịch hỗ trợ, quy hoạch đồng bộ. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động do thiếu cơ chế quản lý và những quy định ràng buộc trong việc phân chia lợi ích giữa các bên liên quan nên doanh thu không tới cộng đồng. Nguyên nhân là do chưa có quy định về mức phí phải trả cho cộng đồng nên doanh thu phần lớn thuộc về các doanh nghiệp lữ hành. 

Bên cạnh đó, hiện nay cộng đồng địa phương chưa ý thức được vai trò, quyền lợi của mình dẫn tới thiếu định hướng phát triển trong tương lai. Đơn cử như dự án tại làng DLCĐ Mỹ Sơn sau khi dự án kết thúc do cộng đồng địa phương không có đủ chuyên môn để quảng bá, kết nối, duy trì hoạt động du lịch vì vậy dự án hiện nay không thể tiếp tục triển khai. Dẫn tới vấn đề bảo vệ môi trường trong việc phát triển du lịch không được coi trọng. 

Ngoài ra, về sự tham gia của cộng đồng địa phương trong DLCĐ còn mờ nhạt, tự phát, manh mún. Cộng đồng địa phương chưa đóng vai trò chủ chốt trong DLCĐ. Hiện nay các mô hình DLCĐ còn chưa chủ động trong việc tìm kiếm và gây dựng nguồn vốn. Các mô hình chỉ được đưa vào thực tế khi có nguồn vốn bên ngoài làm thiếu đi sự chủ động trong việc quản lý du lịch tại địa phương. Thiếu nguồn vốn còn dẫn tới cộng đồng địa phương không có tiếng nói trong mô hình hoạt động kinh doanh dẫn tới tâm lý đi làm thuê.

Hiện nay các cộng đồng địa phương chỉ tham gia vào các hoạt động sản xuất thiếu sự quan tâm vào các hoạt động quy hoạch, định hướng phát triển du lịch của chính cộng đồng. Các cộng đồng không có đủ chuyên môn hoặc không đủ quyền hạn để tham gia vào quá trình quyết định. Sự tham gia của cộng đồng địa phương thường có quy mô vừa và nhỏ bên cạnh đó kinh doanh du lịch còn bị chi phối bởi yếu tố mùa vụ. Vì vậy mô hình thường không tập trung và mang tính chất ngắn hạn, không được quan tâm và đánh giá đúng mực từ phía các cộng đồng địa phương. 

Tìm hướng phát triển bền vững

Với những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên đã kéo theo hệ lụy là nhiều du khách “một đi không trở lại”, nguồn lợi du lịch không những không được khai thác hết mà còn đứng trước nguy cơ mai một, lai tạp bản sắc. Để tháo gỡ thực trạng này, bên cạnh sự phối hợp của các cơ quan nhà nước thì bản thân cộng đồng dân cư cần hiểu rõ mục đích của việc phát triển DLCĐ cũng như chủ động tham gia vào quy trình nâng cao, năng lực trình độ, tích cực phối hợp cùng các bên liên quan tuyên truyền lan rộng các chương trình đào tạo và đóng góp tri thức địa phương để xây dựng nội dung đào tạo phù hợp.

Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Quang Trung- Chi hội Hướng dẫn viên Du lịch Việt Nam (VTGA), Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam cho rằng, DLCĐ muốn phát triển cần tôn trọng nguyên lý “4 chung, 3 nhà”. Trong đó, “4 chung” ở đây là chung văn hóa, chung cộng đồng, ăn chung, làm chung. Vấn đề tồn đọng từ nhiều năm nay ở mô hình này đó là chưa có sự phân chia quyền lợi rõ ràng giữa các bên, dẫn đến các hoạt động còn chưa thực sự chuyên nghiệp và đồng bộ. Cũng theo ông Trung, để du lịch cộng đồng có thể phát triển đúng như định hướng cốt lõi của nó, cần giới hạn lượng khách tham quan. Không thể vừa phát triển ồ ạt, vừa giữ được các bản sắc văn hóa trong đời sống cộng đồng.

Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Lệ Quyên- Trợ lý Dự án tại Quỹ Văn hóa Hà Nội cho rằng, DLCĐ không thể độc lập, tự thân phát triển mà cần có cả một hệ sinh thái. “3 chân kiềng” của DLCĐ là “Du lịch cộng đồng giúp người dân thân thiện hơn với môi trường; Giúp mọi người gần gũi với nhau hơn về mặt văn hóa – xã hội; Giúp người dân có nguồn kinh tế tốt hơn”. DLCĐ không hề tiêu cực, nhưng tất nhiên như mọi hoạt động khác của đời sống, trong quá trình phát triển, nó luôn đi kèm với những hệ lụy. Đó là điều mà những chính sách cần lưu tâm để có những điều chỉnh cho phù hợp.

Có thể thấy, du lịch nói chung và DLCĐ đồng nói riêng đã, đang và sẽ mang lại những nguồn lợi vô cùng to lớn cho xã hội, kinh tế, môi trường... của Việt Nam. Để đảm bảo các mô hình du lịch cộng đồng hoạt động lâu bền và mang lại những giá trị cao nhất, cần phải nâng cao, thúc đẩy sự tham gia có hiệu quả của chính cộng đồng địa phương vì cộng đồng địa phương là nền móng của loại hình du lịch này.

Theo Minh Quân - ĐĐK

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • “Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

  • Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.

  • Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?

  • Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.

  • Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.

  • Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…

  • Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”

  • Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.

  • Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.

  • L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.

  • Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.

  • Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...

  • Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.

  • Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.

  • Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt Nam được quốc tế công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thì trong tài nguyên, cũng có tài nguyên phi vật thể- tài nguyên con người.

  • Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.

  • Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.

  • Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.