Dư âm những đêm “dư âm”

15:38 29/07/2008
HOÀNG HUẾNgười nhạc sĩ lão thành từ từ bước ra sân khấu. Mái tóc anh bạc phơ như tóc tiên ông, và đôi mắt thì long lanh sâu thẳm, tưởng chừng chứa hết cuộc đời. Ồ, cuộc đời dài của một nghệ sĩ, dĩ nhiên đan kín những nỗi buồn vui, kể từ cái ngày hơn nửa thế kỷ trước, khi còn là chàng thanh niên trẻ măng, anh cống hiến cho đời bài hát “Dư âm” bất hủ.

Còn bây giờ, người nghệ sĩ tài hoa kia đã bước qua ngưỡng tuổi 78, nên trong tháng 10 và tháng 11 của năm đầu thế kỷ mới, nhờ lòng nhiệt thành và tài tổ chức của nghệ sĩ gốc Huế Vũ Ban, Sài Gòn có mấy đêm mang tên “Dư âm” ở những địa điểm khác nhau để chúc thọ anh.
Đứng trên sân khấu, dù mang dáng vẻ bên ngoài của người già cả, dường như tâm hồn nhạc sĩ cao niên này còn rất trẻ, với giọng nói sang sảng, lời nói duyên dáng và nụ cười thường trực trên môi.
Anh chân thành tâm sự cùng khán giả:
- Tại sao lại có cái tên “Dư âm” cho bài hát? Tôi thường nghĩ rằng tình yêu là cây đàn muôn điệu. Và tôi thường chiêm nghiệm một cách triết lý rằng trong tình yêu, trong cuộc đời, tất cả rồi sẽ qua đi, sẽ mất đi. Cái duy nhất còn lại chỉ là “Dư âm” của một thời quá khứ.
Tôi quen biết nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý hơn nửa thế kỷ rồi, từ khi anh còn là trưởng đoàn văn công của Sư đoàn 304 thường đóng ở Liên khu 4 cũ trong thời kháng chiến chống Pháp. Đó cũng là thời điểm ra đời của ca khúc “Dư âm”. Giữa tiếng gầm thét của bão lửa chiến tranh, giữa khi mà tính mệnh con người bị bom đạn đe doạ tưởng chừng treo trên đầu sợi tóc, cuộc đời vẫn du dương vang lên âm giai ngọt ngào của tình yêu! Chỉ vì điều đó chính là đề tài muôn thuở của văn học nghệ thuật, điều đó muôn đời nằm sâu trong trái tim con người:
“Anh yêu tiếng hát, êm như lời nguyền đẹp bao ước mơ.
Anh như lầu vắng, em như ánh trăng reo muôn ý thơ”
Thời kỳ đó, ngưỡng cửa vào đời của lứa trẻ chúng tôi không kết bằng hoa mà bằng tiếng súng. Nhưng chính ở cái ngưỡng cửa đầy chông gai đó, thật ra chúng tôi vẫn cài một bông hồng tình yêu trong trái tim trai trẻ. Khi bén duyên với một nhan sắc tri âm nào đó giữa dòng đời, chúng tôi vẫn tin ở mấy chữ “duyên nợ”, “duyên kiếp”, và hình tượng cổ xưa này chợt hiện lên vô cùng sống động trong câu hát Nguyễn Văn Tý:
“Hẹn nhau từ muôn kiếp trước, nhớ em mấy thuở bạc đầu”
Lứa văn nghệ sĩ chúng tôi công tác ở Ban Văn Nghệ sư đoàn thời ấy, một số đã giã từ cõi đời, một số sống ở phương trời xa, có người trở về quê quán cày ruộng và làm thơ, có người trải qua nhiều trầm luân khổ ải, lại có người chức vụ thật cao trong chính quyền. Riêng nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, một mình một bóng, vẫn âm thầm tiến bước trên con đường âm nhạc, bàn chân giai điệu của anh chưa hề ngưng nghỉ. Có lẽ nhờ lòng kiên trì nghệ thuật kia, anh từng đoạt một số giải thưởng âm nhạc toàn quốc, và gần đây nhất, năm 2000, giải thưởng Hồ Chí Minh. Ngoài những sáng tác cả nhạc lẫn lời đều của anh, vào thập niên gần đây, nhạc sĩ còn phổ nhạc một số bài thơ mà anh yêu thích, của Xuân Quỳnh, Trần Mạnh Hảo...
Năm ngoái, không rõ vì tình bạn cố tri hay vì tâm đắc, anh bỏ ra chín tháng trơi phổ nhạc bài thơ “Em hát” của tôi. Bài thơ này cũng là một thứ “dư âm”, tôi làm 44 năm trước, viết tặng riêng một người nên chưa hề đăng báo. Chỉ thỉnh thoảng, khi bồi hồi nhớ lại kỷ niệm xưa, tôi mới đem đọc nó trong các buổi “trà dư tửu hậu” cùng bạn bè văn nghệ. Dường như những vần thơ này cũng lưu chút ít ấn tượng cho người nghe, nên nhà thơ trẻ Đoàn Vị Thượng viết bài báo “Bài thơ vượt thời gian” đăng trên báo “Phụ Nữ Thành Phố”, một nhà thơ Việt kiều đem in ở Mỹ, còn nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý thì phổ nhạc để chắp thêm cánh bay cho thơ. Nói một cách hình tượng hơn, cũng như đối với 4 bài thơ khác mà anh phổ nhạc ở khoảng cuối đời, anh đã đắp thêm mây trắng cho các cánh thơ để bay bổng, bay cao hơn nữa.
Thông thường ở đời, người ta càng già đi thì càng có nhiều bệnh tật, càng giảm bớt lòng yêu đời, yêu người. Nhưng Nguyễn Văn Tý lại khác. Cho dù bệnh tật đầy người, nhiều tháng phải khổ công tập luyện phương pháp sinh học, nhiều tháng phải chống nạng khó nhọc tập đi lại sau cơn tai biến mạch máu não, cuối cùng anh vẫn đứng trên sân khấu với nụ cười thật tươi. Anh nói:
- Xin đừng tưởng tôi già lão, nên lòng tôi hết yêu. Không, trái tim tôi vẫn tràn đầy tình yêu. Bởi vì muốn tiếp tục làm nghệ thuật, phải yêu thương đến tận hơi thở cuối cùng.
Quả thật khoảng dăm tháng trước, khi tôi dẫn nghệ sĩ diễn ngâm Vũ Ban đến thăm anh ở bệnh viện ( thỉnh thoảng anh lại phải đi nằm viện), biết Vũ Ban là người vốn quý mến trân trọng những ca khúc của anh, Nguyễn Văn Tý thì thầm với chúng tôi:
- Quỹ thời gian của mình còn rất ít, nhưng mình vẫn gắng sáng tác đến phút chót.
Từ buổi thăm bệnh đó, một ý định quyết tâm chợt manh nha trong đầu chúng tôi: “Phải tổ chức một đêm “Dư âm” đầy kỷ niệm để mừng thọ anh”.
Không phải chỉ có một đêm, mà Sài Gòn vừa qua đã có hai buổi “Dư âm”. Người nghệ sĩ quê Bắc, ra đời ở thành phố Vinh, làm rể miền Hương Ngự, hiện cư ngụ Sài Gòn, tựa hồ chiếm được vô số cảm tình của công chúng yêu nhạc ở khắp mọi miền đất nước.
Buổi diễn nào cũng đông nghịt khán giả và không ai ra về trước bài hát cuối cùng. Phải chăng khán giả đến với nhạc sĩ bằng tất cả tấm lòng họ? Đó là những người từ xưa từng thuộc nằm lòng những giai điệu của “Dư âm”, và sau đó của “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”, “Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa”, “Dáng đứng Bến Tre”, “Cô đi nuôi dạy trẻ."v.v...
Không khí các buổi diễn thật trang trọng. Trang trọng nhưng không trịnh trọng. Mà ngược lại, đồng cảm, chan hoà, ấm áp tình nghĩa.
Trong đêm “Dư âm” đầu, có mặt người vợ Huế đầu tiên của Nguyễn Văn Tý, là em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Có mặt các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhạc sĩ bè bạn.
Ngay các ca sĩ nổi tiếng mà nhạc sĩ gọi là “người thân trong gia đình, còn thân hơn cả vợ con”, cũng đến hát bằng cả tấm lòng của mình. Trong khi nhạc sĩ, thoải mái và tự nhiên, đứng lên đưa tay đánh nhịp theo điệu nhạc, thì đan xen lẫn nhau là các giọng ca đậm đà của Ngọc Yến, ngọt ngào của Ánh Tuyết, sâu lắng của Hồng Vân, trầm ấm của Quang Lý, bay bổng của Tô Thanh Phương...
Đặc biệt ca sĩ Cao Minh, bằng giọng ca man mác chứa chan cảm xúc, đã biểu diễn xuất thần hai ca khúc mới phổ thơ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý (“Ru người trong năm”, thơ Trần Mạnh Hảo, phổ nhạc 1993 và “Em hát”, thơ Hoàng Huế, phổ nhạc năm 2000). Trong “Em hát”, tiếng hát Cao Minh cơ hồ cũng mường tượng giọng hát trong lời ca khúc nọ:
Em hát vào gỗ mục - gỗ mục bèn ra nấm
Em hát vào gỗ cứng - gỗ cứng chợt ra hoa
Em hát vào lau khô - lau khô xanh thành ruộng
Em hát vào suối cạn - suối cạn chảy thành sông.”...
Tôi là người rất yêu nhạc, dù theo đuổi nghề văn thơ. Tôi thường nghĩ rằng âm nhạc xưa nay không có màu sắc, không có các loại nhạc màu vàng, màu đỏ, màu xanh, màu hồng theo sự sắp xếp khiên cưỡng nào đó. Thật ra trong thế giới loài người, chỉ tồn tại hai loại nhạc, là nhạc hay và nhạc dở. Nhạc hay là thứ nhạc đi thẳng vào trái tim con người, còn nhạc dở khi đến ngưỡng cửa trái tim thì dừng lại, sau đó bị đánh bật ra theo một phản xạ tự nhiên.
Có thể nói hầu hết ca khúc Nguyễn Văn Tý trong các đêm "Dư âm” đều làm xúc động trái tim người nghe.
Nhưng rõ ràng điều quan trọng nhất, theo cảm nhận riêng tôi, dường như chỉ trong khoảnh khắc vài giờ của mỗi buổi “Dư âm” kia thôi, những ca khúc Nguyễn Văn Tý bỗng nhiên trở thành những gam màu sống động, lưu lại trong trái tim công chúng những ấn tượng khó phai mờ.
Phải chăng, đó chính là dư âm của những đêm “Dư âm” vừa qua?

H.H

(nguồn: TCSH số 155 - 01 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VĂN CAO

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố  Nguyễn Thượng Hiền.

  • TRƯƠNG QUANG LỤC  

    Lần đầu tiên tôi quen biết nhạc sĩ Tôn Thất Lập là tại thành phố Hồ Chí Minh sau ngày thống nhất đất nước. 

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Miền núi phía Tây Bắc huyện Minh Hóa ở Quảng Bình có nhiều nhóm tộc người cùng sinh sống như nhóm người Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A Rem (gọi chung là tộc người Chứt), và tộc người Nguồn (trước kia gọi là người bản địa Kẻ Sạt, Kẻ Xét, Kẻ Trem, Kẻ Pôộc bộ Việt Thường, nước Văn Lang).

  • TRÀ AN    

    Người ta gọi Trịnh Công Sơn là Sứ giả tình yêu, Kẻ du ca về phận người, hay Người tình mọi thế hệ… nhưng có lẽ với tên gọi mà nhạc sĩ Văn Cao đặc biệt yêu mến dành tặng ông: “Con người thi ca” thì chức danh ấy phù hợp hơn cả.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG  

    I. Vài nét về dân ca Tà Ôi
    Trong hệ thống phân loại, dân ca Tà Ôi có đến 9 làn điệu gồm: Cà lơi, Ba bói, Cha chấp, Xiềng, Ân tói, Babởq, Ra rọi, Roin, Ru akay. Mỗi làn điệu đều có những quy định, cách thức thể hiện khác nhau.

  • Hoàng Nguyễn hiện là giảng viên thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Anh bước vào nghề hát từ năm 1968. Từ 1973 đến 1978 học thanh nhạc Nhạc Viện Hà Nội, sau đó chuyển về giảng dạy ở trường âm nhạc Huế. Năm 1981 đến 1985 học thanh nhạc tại Bungari. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, Hoàng Nguyễn đã góp phần quan trọng vào thành công buổi trình diễn thanh nhạc Thính phòng đầu tiên tại Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế.

  • NGUYÊN CÔNG HẢO  

    Sau Đại hội tháng 01 năm 2013, vừa ổn định xong công việc tôi được nhạc sĩ Nguyễn Trung, Chi hội trưởng Chi hội Âm nhạc của tỉnh Bắc Ninh mời đi dự chương trình Liên hoan âm nhạc các tỉnh, thành phố kết nghĩa tại thành phố Huế vào tháng 4 năm 2013.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).

  • Thất lạc suốt 150 năm - và bị hiểu lầm là tác phẩm của em trai bà – một bản nhạc táo bạo và phức tạp của Fanny Mendelssohn mới đây đã nhận được sự chú ý xứng đáng dù muộn màng. Hậu duệ cách bà sáu thế hệ kể lại câu chuyện.

  • Theo thông tin mới nhận được từ phía Cục NTBD, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã chính thức được cấp phép lưu hành và phổ biến rộng rãi trên toàn quốc.

  • Gần 1 tháng, sau khi Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) có công văn yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 ca khúc sáng tác trước năm 1975, công chúng yêu nhạc vẫn chưa hết băn khoăn. Mới đây, việc tìm thấy bản gốc ca khúc “Con đường xưa em đi” lại càng khiến dư luận băn khoăn hơn: Mất bao lâu để nhà quản lý hoàn tất việc đối chiếu giữa bản gốc và dị bản của ca khúc? Sau sự việc này, việc xác minh dị bản ca khúc nói chung sẽ được thực hiện ra sao?

  • Bà Kha Thị Đàng - vợ cố nhạc sỹ Châu Kỳ đã bật mí về con đường mòn xuyên qua một cánh đồng lúa mà bà cho rằng chính con đường này đã tạo cảm hứng cho chồng bà và nhà thơ Hồ Đình Phương viết lên ca khúc “Con đường xưa em đi”.

  • Nói đến văn hóa Quảng Bình, không thể không nhắc đến hò khoan Lệ Thủy. Với lối hát dung dị, mộc mạc và gần gũi, làn điệu dân ca này là món ăn tinh thần bao đời nay của người dân nơi đây. Những ngày qua, hò khoan Lệ Thủy đã vang lên giữa Thủ đô, tạo điểm nhấn trong chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”.

  • Vừa qua UNESCO đã chính thức ghi danh công nhận di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

  • Từng đứng trước nguy cơ mai một, nhưng giờ đây, những làn điệu Then không chỉ đã dần tìm lại được chỗ đứng của mình mà còn đang trên hành trình trở thành di sản văn hóa của nhân loại. Đó chính là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của các cấp, chính quyền và các nghệ nhân, những người tâm huyết với Then.

     

  • Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

  • Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn giải thích việc gửi văn bản gửi Sở VH-TT TP HCM yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 bài hát đã cấp phép phổ biến để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan.