Đọc thơ Xuân Quỳnh

14:52 28/03/2011
NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

Nhà thơ Xuân Quỳnh - Ảnh: internet

Thời gian là thước đo, là chiều kích của mối quan hệ giữa người làm thơ và người đọc. Người làm thơ sống dưới vùng trời khác, sinh ra trong một gia đình khác. Người đọc thơ đi lại, nói năng trên mảnh đất khác, giữa bạn bè khác, thậm chí từ một lịch sử khác. Những kiến thức và suy luận không mấy khi giúp họ đến gần nhau. Nhưng sự xúc động, nỗi hồi hộp vui sướng, cảm giác bất an mơ hồ: chúng làm được điều ấy. Từ trong vòng vây ràng buộc của thời gian hữu hạn và cái chết, nhà thơ truyền cho người khác kinh nghiệm của đời sống riêng mình.

Nếu thời gian là sự chiêm nghiệm giữa một người và một người thì không gian là tương tác giữa một người và những người đương thời, bạn bè, đất nước. Không gian ấy có thể nhỏ bé, nhưng tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử, những mất mát được ghi lại lặng lẽ, kín đáo, khiêm tốn. Sự khôn ngoan của các chi tiết, ngày nay chúng ta ít thấy.

Tuổi thơ con có những gì/ Có con cười với mắt tre trong hầm

Không gian ấy bất tận, vì chính là thiên nhiên mà chị từ đó lớn lên và yêu mến.

Thiên nhiên không phải là đối tượng của thơ Xuân Quỳnh: muốn nói về thiên nhiên thì phải tách rời ra khỏi nó, nhìn ngắm nó như một thực tại tương đối biệt lập.

Mưa đổ bụi êm đềm trên bến vắng,/ Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;/ Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
                                                                        (Anh Thơ)

Chị cũng không tìm cách trở về với thiên nhiên như các nhà thơ lãng mạn thời trước ở thành thị. Tôi không rõ tiểu sử Xuân Quỳnh, nhưng đọc chị tôi có ấn tượng về một người lớn lên hay từng sống ở nông thôn. Ai đã sống ở nông thôn đều cảm được rằng con người với thiên nhiên là một. Thiên nhiên trở thành một phần của tâm hồn, tâm cảnh. Có hai khuynh hướng trong thơ trong mối quan hệ giữa nhà thơ và thiên nhiên, một khuynh hướng tự đồng hóa với thiên nhiên và khuynh hướng thứ hai, xem thiên nhiên là môi trường của những mối quan hệ và những sự thật khác, là nơi ký gởi thông điệp. Đọc thơ Xuân Quỳnh tôi nhận ra cách đây vài chục năm, mặc dù trong thời chiến tranh, xã hội mà chị sống trật tự, an bình. Trong ký ức của tôi, xã hội nơi tôi lớn lên cũng an bình như thế. Ngay trong chiến tranh. Tôi thường ngạc nhiên về nhận xét này.

Ngọn gió đông làm má ửng hồng/ Giữa đường cày con sáo đứng bâng khuâng

Chị không chỉ là người tình, một mình bâng khuâng nhớ người yêu, mà trở thành người làm chứng của thiên nhiên, một thiên nhiên càng ngày càng mất đi. Nhưng hình ảnh con sáo đứng đó lâu dài, in bóng lên nền trời. Đó là một hòa hợp, và trên hậu cảnh ấy, sự chia ly, xa cách như những nhát cắt lúc nào cũng mới và đau đớn.

Ngờ ngợ bóng ai xa/ A! đúng rồi bóng cha/ Tôi ôm người nức nở

Thơ như thế chưa thể gọi là thơ hay, nhưng nó làm người ta xúc động. Đó là giọng thương cảm mà các nhà phê bình đương đại phương Tây thường chê trách, nếu không muốn nói là chế nhạo. Nhưng tôi tin rằng có thể có những quy luật tình cảm riêng biệt. Bởi vì lúc khác, nhớ mẹ, chị biết nén mình lại, khiến cho tâm sự có sức tỏa xa trong câu thơ xúc động:

Mẹ ơi mẹ từ trong lòng đất

Sự không thỏa mãn đối với nhu cầu tinh thần phát sinh cô đơn. Xuân Quỳnh là người cô đơn, mặc dù có thể trong đời thực, chị sống yêu thương, chan hòa với người khác và bên chồng, bên con.

Sao mẹ chẳng sinh con ở dưới những cơn mưa/ Lại sinh con nơi đảo khô cằn thế

Mặc dù chị nói về một hòn đảo nhỏ, trong hoàn cảnh cụ thể. Cô đơn đến nỗi khi muốn vui, muốn đến bên nhau, chị đâm ra vội vàng, có chút vụng về:

Tay ta nắm lấy tay người/ Dẫu qua trăm suối ngàn đồi cũng qua

Tình yêu là động lực lớn nhất chi phối cảm hứng thơ ca của chị. Tình yêu ấy đi qua một đất nước như thế này:

Những đường ray chìm trong cỏ dại/ Những nhà ga lau sậy um tùm

Đó là chị viết về chiến tranh. Trong những câu thơ ấy có cái bùi ngùi, tiếc nuối, buồn bã, thương xót. Tình thương trở thành tình yêu, cắt nghĩa chất hy sinh của chị trong nhiều bài thơ tình. Mặt khác, khi lên đỉnh cao, tình yêu bao giờ cũng vui, cũng hân hoan rực rỡ. Khi yêu, ai mà muốn điều gì khác, ngoài niềm vui, muốn được hét lên? Nhưng tôi không mấy khi tìm thấy điều ấy trong thơ Xuân Quỳnh cũng như nhiều nhà thơ nữ khác cùng thời. Tính cách văn hóa của nước mình chăng? Chị khiêm tốn:

Chỉ riêng điều được sống cùng nhau/ Niềm sung sướng với em là lớn nhất/ Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực

Nói xong, chị quay đi, lo việc nhà cửa, chồng con:

Chúng tôi chỉ là những người đàn bà bình thường không tên tuổi
Quen việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày

Rõ ràng là ngược lại tư tưởng nữ quyền ngày nay. Nhưng chị muốn kín đáo. Để nói được những điều mênh mông hơn vào lúc khác.

Trước cây cỏ vô tư em chẳng giấu/ Nỗi nhớ anh, nỗi nhớ khôn cùng

Như thế, nỗi nhớ hình như là cách thể hiện phổ biển nhất của tình yêu ở người phụ nữ. Người đàn bà xưa không mấy khi sống cho mình, mà sống nhiều hơn cho tương lai. Tương lai nào? Đoàn tụ, điền viên. Hay họ buộc phải như thế, hy vọng tìm ra dòng chảy ổn định, thăng bằng. Chị tìm ở đâu?

Chớ thương em một mình vất vả/ Em ở đây bạn bè đông đủ cả

Thật ra sự thăng bằng đến từ bên trong, tâm hồn của chị có bền vững rồi thì bạn bè mới hội tụ đông đủ được. Vì sự ổn định đến từ bên trong, nên gánh nặng của chị lớn, trĩu xuống.

Nào hạnh phúc, nào là đổ vỡ/ Tôi thấy lòng lo sợ không đâu

Chị cũng biết nghi ngờ, ghen tuông:

Lại hàng cây nghe tiếng thì thầm/ Lời thành thật, dối lừa trên ghế đá

Có lúc giận dữ:

Dẫu trong em một tình yêu đã mất/ Em không còn đủ sức nghĩ về anh

Nhưng có thể không phải thế, mà đó là lúc chị thoát khỏi ảo tưởng, đạt tới cái nhìn trong trẻo, thanh sạch đối với sự thật.

Và trong em không thể còn anh/ Nếu ngày mai em không làm thơ nữa

Là một trong những câu thơ bí mật nhất của Xuân Quỳnh. Trong những câu như thế, phong cách riêng của chị lộ ra, nửa lãng mạn nửa hiện thực. Ngôn ngữ của chị được sinh ra, trời cho, chứ không phải do rèn luyện. Một người như thế dễ hài lòng với từ vựng và văn phạm của mình; quả nhiên chị làm thơ có vần, và có những bài bảy chữ, tám chữ và lục bát thật hay, nhưng ít khi làm thơ tự do. Thơ tự do thiên về phá vỡ, xô lệch, nghiêng về hậu thiên.

Ngôn ngữ của Xuân Quỳnh trước sau vẫn là ngôn ngữ tình yêu, đẹp, và vì tình yêu thường buồn, day dứt, nên nó có màu của mùa thu:

Tên mình ai gọi sau vòm lá/ Lối cũ em về nay đã thu

Chị không phải là người có lỗi, nhưng thơ chị có vị ăn năn. Xuân Quỳnh không đặt ra những câu hỏi siêu hình, chị không để lộ băn khoăn về vai trò của thơ ca đối với cuộc đời. Như một người tự đối thoại, không cần biết ai lắng nghe, chị nói bằng giọng thành thật, tự đáy lòng.

Nói cách khác, chị đi tìm giọng nói của mình không mấy khó khăn. Đối với nhiều nhà thơ, phải mất nhiều năm trời, mới có thể nhận ra chất giọng thực sự của mình trong sáng tạo. Sự dễ dàng ở chị cũng có cái giá của nó: chất giọng quý, tự nhiên, thì khó thay đổi.

Trong thơ trữ tình, giọng nói thường là của tác giả. Nhờ thế, nhà thơ có thể dùng một thứ ngôn ngữ tinh khiết nhất của thơ ca. Tuy nhiên ngay cả thế đi nữa, thì chất giọng tinh khiết ấy vẫn chỉ là giọng thơ ca chứ không phải là cá nhân.

Mặt khác, giọng thơ ca lại không phải chỉ của một người, nó phức tạp hơn và là kết quả của sự tương tác giữa tâm hồn nhà thơ và nhiều yếu tố như truyền thống, văn hoá, xã hội, điểm nhìn. Nó cũng liên quan đến từ vựng và ngôn ngữ. Và nhất là kinh nghiệm sống.

Ngoài ra, giữa kĩ thuật và tay nghề cũng có sự khác biệt. Càng viết về sau tay nghề của nhà thơ càng lên nhưng kĩ thuật mà chị áp dụng cho từng bài không nhiều thay đổi. Thơ tình dĩ nhiên là nói về quan hệ nam nữ, nhưng tôi ít thấy nhà thơ nào xác lập một quan hệ sóng đôi cân đối nhiều như Xuân Quỳnh.

Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ

Khởi đầu hay quá, nhưng ám ảnh về quan hệ sóng đôi khiến chị không thể không phạm vào khuyết điểm thông thường, là lập lại. Có phần dễ dãi:

Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau - rạn vỡ

Có hai mô thức của thơ tình, một về hạnh phúc, một về khổ đau. Trong mỗi bài thơ của chị có thể thấy được cả hai, thể hiện bằng sự thương thân mình.

Nhờ khuynh hướng tự thương thân, chị có thể nhận ra từng chi tiết nhỏ trong đời sống hàng ngày, nhặt chúng lên trong tay, những hoa lá cỏ cây, giọt mưa, bầu trời. Thời gian, sự trôi đi, sự mất mát là ám ảnh thường trực. Trong thơ Xuân Quỳnh, không gian là người đàn ông, thời gian là người đàn bà. Nam giới là các huyền thoại, là xã hội công nghiệp, nữ giới là sự hồi tưởng, là bền vững, là sự kế tục. Bằng hồi tưởng, người nữ tự ý thức về mình. Khả năng này rất mạnh ở Xuân Quỳnh, biểu hiện trong thơ của chị dưới dạng thức trầm tư (meditative). Con người vừa sống vừa suy nghĩ, có khi sống nhiều hơn, có khi suy nghĩ nhiều hơn. Dạng thức trầm tư trong thơ Xuân Quỳnh làm thời gian của chị trôi chậm lại, làm cho người nữ trong thơ trữ tình tiến gần về phía người đàn ông, giúp nhà thơ tham dự vào quá khứ và tương lai, nhưng quá khứ nhiều hơn. Cần chú ý rằng trong khi thơ trữ tình của các nhà thơ hiện thực hướng nhiều vào tương lai thì phong cách trầm tư của Xuân Quỳnh giữ chị lại phía bên này của nữ tính cổ điển. Thời gian trong thơ Xuân Quỳnh chưa phải là thời gian hiện tại và hiện đại, chị chưa tự đánh mất chính mình, vì thế bao giờ chị cũng trở lại được với các biên giới của hiện hữu. Vì thế, khi đọc thơ chị, người đọc cảm nhận một điều gì mong manh, đáng thương mà phúc hậu, nhân từ. Theo tôi, có một vài nhà thơ khác về sau theo được khuynh hướng này, ví dụ như Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Xuân Quỳnh trộn lẫn nhiều thứ, ở nhiều bài là những trộn lẫn chưa chín chắn, có cảm giác như đang tìm đường, trong khi ở một số bài khác, là sự hòa hợp trên mức cao giữa truyền thống và cách tân thẩm mỹ.

Đắng cay gởi lại bao mùa cũ/ Thơ viết đôi dòng theo gió xa

Hình tượng thơ ca gồm nhiều loại, nhưng quan trọng hoặc phổ biến hơn cả, hoặc cả hai, là tỷ dụ hay hiển dụ (simile) và ẩn dụ (metaphor), cả hai đều thuộc nhóm so sánh. Trong khi ẩn dụ là sự dịch chuyển của hình tượng thì hiển dụ bao giờ cũng chỉ thẳng tính chất so sánh ấy một cách hiển nhiên.

Có lẽ vì lý do ấy mà nhiều người nghĩ rằng phương pháp ẩn dụ cao hơn phương pháp hiển dụ. Thật ra không phải vậy. Đó chỉ là hai phương cách khác nhau với những điểm mạnh và yếu riêng biệt.

Xuân Quỳnh sử dụng rất tài tình các ẩn dụ:

Chỉ có thuyền mới biết/ Biển mênh mông dường nào

Nhưng chị dùng nhiều hơn và thuần thục hơn các so sánh hiển nhiên:

Tình ta như dòng sông

Ngay trong một bài thơ, chị có thể dùng cả hai phương pháp cho một hình tượng, có khi thành công, có khi không thành công, và trong trường hợp thứ hai này, sự hỗn hợp làm cho khí lực bài thơ yếu đi:

Những đêm trăng hiền từ/ Biển như cô gái nhỏ

Chữ của chị không mới, khối lượng từ vựng (diction) khá giới hạn. Tôi không chắc lắm chị có chịu ảnh hưởng của ai không, nhưng dấu ấn của thơ tiền chiến và các nhà thơ hàng đầu đương thời không thấy rõ trong thơ chị. Có vài câu học trò:

Khi lớn khôn ước mơ càng cháy bỏng/ Vai kề vai nghe rộn tiếng tim yêu/ Trải tâm tư dưới trời trăng sáng/ Cuộc đời ơi, đẹp biết bao nhiêu!

Cái ấy cũng bình thường, nhiều nhà thơ mới viết cũng bắt đầu như thế. Có điều lạ, đối với tôi, là chị thường trở đi trở lại với chúng, ngay cả khi đã viết những câu giản dị mà diễm tuyệt, gần như bất tử:

Tình ta như dòng sông/ Đã yên ngày thác lũ

Giản dị là gì? Đó là sự phức tạp nhân đôi.

Rõ ràng đó là giọng thơ của người đã chín, biết nén lại, của một người bị cuộc đời xay đập nhiều lần, học được cách nói năng dịu dàng, điềm đạm, dồn năng lượng vào chữ. Nếu được sống và viết lâu hơn, tiếp xúc nhiều hơn, trong không gian và trong thời gian, với các nền thơ khác, cách tân hơn, bay bổng hơn, thơ chị sẽ còn nhiều khám phá thú vị.

Về phương pháp hiện thực, Xuân Quỳnh thể hiện mình có phần khó khăn:

Sóng đồng chiêm - ôi cái sóng đồng chiêm/ Ai bảo sóng đồng không đáng sợ

Có vẻ như chị phần nào lẫn lộn giữa khuynh hướng hiện thực và phong cách tự sự. Chỉ khi nào chị từ bỏ trường hiện thực cổ điển và bước sang giao tiếp thẩm mỹ hiện đại, thơ chị vượt lên:

Lối đi quen bỗng lạ/ Cỏ lật theo chiều mây

Những người không sống hay lớn lên như chị trong thời gian 1954-1975, ở miền Bắc, nhất là lúc chiến tranh, nên đọc Xuân Quỳnh. Vì khác với nhiều người, thơ chị viết về cuộc đời thường, có riêng, có chung. Đọc chị, tôi biết đó là cuộc đời hạnh phúc. Mặc dù đối với tôi, có thể nó không hấp dẫn.

Thơ Xuân Quỳnh biểu lộ một năng lượng dồi dào như chính tuổi trẻ của chị, đáng kính trọng, lớn lên trong gian khó. Chị yêu cuồng nhiệt; và nếu cần, có thể nói:

Nếu phải cách xa anh/ Em chỉ còn bão tố

Đẩy xa nữa, có thể chị sẽ chạm vào khuynh hướng hài hước đương đại, hoặc khuynh hướng hài hước pha lẫn bi kịch. Thơ chị nhiều câu cũng có tính chất vui chơi (playful) và, mặc dù không được thể hiện rõ trong các bài thơ trữ tình, có lẽ nhờ vậy mà chị viết được một số bài thơ hay cho thiếu nhi.

Có một nỗi xao xuyến, nổi loạn, ngổn ngang trong những dòng tâm sự dịu dàng. Chị kẹt vào giữa hai thế giới: một bên là khuynh hướng nữ tính truyền thống, không những được nuôi dưỡng bởi không gian văn hóa thời kì ấy mà còn được bảo trợ, kì lạ thay, bởi toàn bộ nếp sống xã hội chủ nghĩa mà chị lớn lên trong đó, một bên là khuynh hướng nữ quyền tự do âm ỉ. Chị có thể không may mắn có nhiều điều kiện bay nhảy như những đồng nghiệp khác của chị, nhưng đừng hiểu lầm: chị vẫn sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc của chị tiêu biểu cho một lớp người, một thế hệ, theo phong cách của họ.

Trước muôn trùng sóng bể/ Em nghĩ về anh, em

Truyền thống, nhưng vẫn mới, vì trực tiếp. Ngay cả mới như Minh Đức Hoài Trinh ở miền Nam cũng dùng đến nghệ thuật ám chỉ:

Người ấy đi về xứ
Chim kia bay về xứ
Đại dương trôi về xứ
Gió cuốn lá về xứ

Bốn câu thơ lạ, mềm mại nhưng ác liệt. Còn phong cách Xuân Quỳnh: thùy mị, thu mình, nghĩ về anh trước, nghĩ đến em sau. Thật ra, theo kinh nghiệm của tôi, sự khiêm tốn ở người nữ chưa hẳn là khiêm tốn: nó cao hơn.

Có khi chị chạm được vào kho tàng văn xuôi của thơ:

Đêm đầu tiên tôi trở về quê cũ/ Chưa thấy mặt người thân, chưa gặp được xóm làng

Dễ mà khó.

Đọc một số nhà thơ nữ cùng hoàn cảnh với chị hoặc sau đó một thế hệ, như Lý Phương Liên, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, tôi cũng có ấn tượng về truyền thống nhẫn nại, ít bộc lộ tính cách cá nhân góc cạnh, mạnh mẽ, như:

Chúng ta là những người nữ xinh đẹp
Xinh đẹp hơn mọi loài hơn trái đất
                                                (Nhã Ca)

Ngược lại, chị trong trẻo, tha thiết, bồi hồi.

Cát vắng, sông đầy, cây ngẩn ngơ,
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa.
Tên mình ai gọi sau vòm lá,
Lối cũ em về nay đã thu

Có phần nào giống với thơ lãng mạn của Thơ Mới, nhưng các nhà thơ trước đây không thể viết như vậy. Xuân Quỳnh cũng vấp những khuyết điểm thông thường, có thể tránh được.

Lời yêu mỏng mảnh như màu khói,/ Ai biết lòng anh có đổi thay?

Câu trước đẹp toàn hảo, câu sau thì hơi tầm thường, vô tình có phần giống một câu thơ của Hàn Mặc Tử.

Ngoài câu đó ra, bài Hoa Cỏ May gần như tuyệt bích, là một trong những bài hay nhất của chị. Trong thơ, thông tin nén chặt lại so với ngôn ngữ thường ngày, nhưng chính toàn bộ bài thơ, chứ không phải chỉ là thông tin, sẽ làm nên năng lượng của nó. Đó là một thứ năng lượng tràn ra khỏi biên giới của ngôn ngữ thông thường, xét như phương tiện của ý nghĩa. Đó là cảm nhận của tôi khi đọc Hoa Cỏ May.

Tôi cũng có ý đi tìm dấu vết ảnh hưởng của thơ Lưu Quang Vũ lên Xuân Quỳnh và ngược lại. Nhưng tôi lại tìm thấy sự đồng điệu. Còn ảnh hưởng của họ lên nhau, nếu có, cũng rất tinh tế. Họ giống nhau ở lối đi vào chi tiết một cách thi vị, ở tình cảm lắng sâu, mô tả lược giản. Lưu Quang Vũ, bài Em Vắng: 

Tình yêu của anh ở sau cửa kính/ Tình yêu của anh đi với mùa hè/ Còn chị?/ Quá khứ của em ngoài cánh cửa/ Gương mặt anh, gương mặt các con yêu

Nhưng họ lại khác nhau, nhờ vậy mà có sự tương ứng, thậm chí hô ứng. Trong cùng một bài thơ nói trên, anh nhớ người đi vắng:

Tấm gương soi vào khoảng trống/ Ngọn đèn soi gian phòng vắng/ Tấm áo em trên thành ghế im lìm/ Từ xa, chị trả lời:/ Em có đem gì theo đâu/ Em gửi lại cho anh tất cả

Có chứ. Chị mang theo những buồn vui, thanh thản và bí mật của kiếp người. Nào đâu những giấc mơ đẹp, lý tưởng nhất thời, ảo tưởng lâu dài, chúng chẳng còn nghĩa gì. Chỉ tình yêu ở lại.

Nhà thơ Auden có một ý nổi tiếng rằng: các nhà thơ chết đi khi sự nghiệp của họ đã hoàn thành. Nhưng chị thì khác, việc hãy còn dang dở.

Thời đại ngày nay cũng khác. Thơ Xuân Quỳnh không trả lời được hết mọi câu hỏi, vả lại cũng không một nhà thơ nào làm được thế, nên những người yêu nhau có thể đi tìm câu trả lời ở những nơi khác.

Cuốn sách nói về tuổi trẻ chúng tôi
Nằm khiêm tốn giữa muôn nghìn cuốn khác

Tuy vậy, khi chúng ta trở về, cái bóng của thơ Xuân Quỳnh vẫn còn đổ dài trên trang sách để mở: thơ chị là một phần của, hay là một trong những, tuổi trẻ chúng ta.

Starbuck, Broadway, 1.21.2011 
N.Đ.T
(265/3-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.

  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)