Đọc thơ Trà My

10:38 23/02/2009
TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

Có lần nhà thơ Nguyễn Duy đã viết:
Nghe đồn thi sĩ làm quan
Gió mây thôi hết muốn làm gió mây.
Với một giọng cợt đùa, Nguyễn Duy đã nói đến tình cảnh của những thi nhân dấn thân vào con đường tham chính, lòng luôn trăn trở giữa hai kiểu tư duy, tư duy quan chức và tư duy thơ.
Thực ra điều đó chỉ đúng với những người xem thơ như món hàng trang trí cho công danh. Còn với những ai xem thơ như nhịp thở thì chẳng hề có chi mâu thuẫn giữa con người làm thơ và con người ở đời. Vào một thời chưa xa lắm, kẻ sĩ dù khi ẩn tàng sơn cốc hay khi rong ruổi việc nước đều lấy thơ văn làm bạn. Thơ Trà My có lẽ cũng là sự tiếp nối truyền thống rất đẹp và rất tao nhã ấy.
Thơ Nguyễn Xuân Hoa là sự phản chiếu tâm hồn anh qua những khúc quanh của cuộc đời. Qua thơ, ta thấy được những gì đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm thức sáng tạo của anh: Tuổi thơ, đất nước và tình yêu.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Hoa ta được biết về tuổi thơ nhiều gian khó, với hình ảnh người cha sớm hy sinh. Kỷ niệm đau đớn ấy luôn trở lại như một ám ảnh suốt đời:
            Trăng hạ huyền tháng ba
            mùa trăng suốt một đời vẫn làm con nhức nhối
            mùa của đêm và bóng tối
            có mẹ ngồi kể mãi nỗi đau ngày ba đi xa

Thế nhưng, trong đáy sâu của bóng tối luôn là mầm ánh sáng, trong tận cùng của nhục nhằn chính là mầm quật khởi:
            Trăng hạ huyền tháng ba
            mùa trăng vẫn âm thầm gieo trong con hạt giống
            dạy con biết vạch bóng đêm
            băng qua những mùa trăng tang tóc
            nuôi mãi một niềm tin
Bởi tuổi thơ buồn nên hình ảnh MẸ cũng thường hiện lên qua những nét hoài cảm đượm màu thương khó. MẸ trong thơ Nguyễn Xuân Hoa hiện ra trong bóng những hồi ức quá khứ, chỉ thấp thoáng một dáng vóc xa mờ :
            Đôi khi thơ như trái đắng
            vô tình rụng xuống đời ta
            buồn như một thời xa vắng
            mẹ ngồi với khúc bi ca
Bên cạnh đó, hình ảnh EM - hình ảnh của hiện tại, tương lai, của sự trưởng thành đầy ánh sáng:
            Đôi khi thơ như giọt nắng
            về gieo một sớm mai hồng
            có em một thời áo trắng
            ngẩn ngơ bên giảng đường xưa

Bởi tình yêu hiện ra như sự khẳng định về vượt thoát, như sự bù đắp và xoá nhoà một thời buồn, hình ảnh EM - người yêu, người vợ, nàng thơ, rực sáng, lồng lộng, như mùa xuân của một đời người, để lại một ấn tượng rất lớn trong thơ Nguyễn Xuân Hoa. Trong thơ anh, tình yêu có thể là hạnh phúc, có thể là khổ đau, nhưng trước hết đây là một đam mê bền bỉ suốt đời:
Sự nghiệt ngã của cuộc đời như hoa hồng
            đẹp và có gai
            làm sinh sôi mọi niềm hạnh phúc
            làm đau một đời người
            anh gọi tên sự nghiệt ngã là em - vợ rất yêu của anh
                                                (Sự nghiệt ngã của cuộc đời)
Anh giống Chúa hai điểm:
            không bao giờ chịu ném đá vào cuộc đời
            nhưng dễ bị cuộc đời đóng đinh mình
            anh yêu em như Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá
Chúa hồn nhiên cứ tưởng sẽ cứu chuộc
                                                được loài người
anh quá tỉnh để biết mình đang gây gổ
                                                với hạnh phúc
nhưng làm thế nào để anh thôi yêu em ?
                                                       (So sánh bừa)
Các nhà thơ thường nhắc đến vợ như nhắc đến tình nghĩa phu thê, thường pha chút áy náy và ân hận. Nhưng Nguyễn Xuân Hoa nói về vợ như nói về một tình yêu say đắm không cần che giấu. Giống như Pushkin, nhưng khác với Pushkin, anh đã có hạnh phúc.

Một thi hào xưa đã nói: “Nàng thơ chỉ nắm tay thi sĩ có một vài đoạn đường, còn hầu hết con đường còn lại thi sĩ phải cố gắng đi một mình”. Nàng thơ ở đây là hiện thân của cảm hứng, một thứ cảm xúc thiêng liêng và đầy bí ẩn, tạo thành những giây phút xuất thần trong sáng tạo.
Thơ Nguyễn Xuân Hoa không phải bài nào cũng hay. Cũng có những bài, những câu chữ anh phải đi một mình trên đường thơ. Nhưng quả thực nàng thơ đã hậu đãi anh rất nhiều. Mà sở dĩ vậy là vì anh đã trăn trở rất nhiều, đã khổ đau hạnh phúc rất thật: bao giờ cũng thế, món quà quý của văn chương chỉ dành riêng cho người đã hết lòng dâng tặng, và thi nhân muôn đời chỉ nhận được vòng hoa khi đôi chân đã rách tướp trên đường đến với cuộc đời.
Ta có thể gặp những câu xuất thần trong “Thơ Trà My” ví như bài thơ làm lúc nửa đêm tỉnh dậy nghe mưa:
            Nửa đêm về sáng
            mưa rất nhẹ
            đã đẫm hơi sương đến lạnh người
            lá run như thuở xuân thì tới
            bỗng gặp tình nhân đến giữa đời
                                             (Mưa nửa đêm)

Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Xuân Hoa luôn thể hiện sự đa dạng trong cấu trúc của ý nghĩa và sức lay động của từ ngữ. Có khi là cách cấu tứ mộc mạc giản dị mà đầy nghệ thuật, phảng phất khí vị thơ Đường: Ta đứng bên đời nghe rất lạ/có chút nắng vàng rơi dưới khe/nghe như đồng vọng lời tri kỷ/ngàn năm mây trắng vẫn đi về. Tưởng chừng trong câu thơ có dư âm thi hứng của người xưa: Bạch vân thiên tải không du du... Có khi anh quay về với lục bát, thể thơ thân quen với dân tộc. Nguyễn Xuân Hoa ít làm thơ lục bát, nhưng những bài lục bát của anh là những bài thơ mà câu chữ đạt đến sự trong trẻo, độ rung và rất nhiều âm vang, cùng với những hình ảnh bình dị nhưng đẹp như tranh vẽ:
            Ta về nhớ dáng ni cô
            tay thon trinh nữ khép hờ trang kinh
            lạc từ mấy cõi vô minh
            nhẩm câu thơ cũ thơm tình ni cô.
        ...
            Dắt nhau về dưới cội tùng
            ngồi bên suối vắng mịt mùng cỏ cây
            nghe lời suối hát tặng mây
            quên câu kinh cũ một ngày đã xa.
                                 (Gặp ni cô, mơ về cổ tự)

Ngôn ngữ thơ lục bát của Nguyễn Xuân Hoa tự nhiên như lời nói dân gian, nhưng đầy sự già dặn súc tích của những chiêm nghiệm sâu sắc:
            Tạ từ một cuộc rong chơi
            dăm ba bạn cũ
            bên trời ngả nghiêng
            có thằng ngất ngưởng như tiên
            có thằng nửa dại nửa điên với đời
            Ta ngồi giữa cuộc chơi vơi
            nửa miền tiên cảnh
            nửa đời rất đau
            ngẫm từ mấy cuộc bể dâu
            phế hưng lớp lớp đã sâu mấy tầng...

Nhưng trên tất cả, trong tập Thơ Trà My, gây ấn tượng nhất cho người đọc là những bài thơ tự do: sự mở rộng biên độ về câu chữ đến vô hạn cho phép tác giả đẩy đến cùng những suy tưởng về cuộc sống. Và cuộc sống, với Nguyễn Xuân Hoa, là hiện thân của sự nghiệt ngã. Anh cảm nhận điều đó trong mọi bình diện của đời mình, khi anh quay nhìn vào dĩ vãng, tình yêu, chí hướng, và cả chính bản thân. Sự nghiệt ngã đã đi qua cuộc đời MẸ. Sự nghiệt ngã trong tình yêu đối với EM. Sự nghiệt ngã trên con đường lý tưởng. Và cuối cùng, ngay cả trong Tôi:
            Sự nghiệt ngã của cuộc đời như hơi thuốc lá
                        hơi thuốc lá làm cay mắt
                                    những người không hút thuốc
                        làm đắng môi trẻ thơ
                        làm cháy đen những buồng phổi
                        làm giảm tuổi thọ một đời người
            anh gọi tên sự nghiệt ngã là tôi
            tôi là sự nghiệt ngã của mọi sự nghiệt ngã
                        sự nghiệt ngã có quân hàm cấp tướng.

Chắc chắn rồi, không có gì trong cuộc sống nầy đến mà không đòi hỏi nhọc nhằn và gian khổ. Và cả thơ, cũng thế. Vì vậy mà dù đã đạt được khá nhiều sự viên mãn ở đời, Nguyễn Xuân Hoa vẫn phải có thơ như cánh cửa khát vọng mở ra một chân trời, đủ để cuộc đời không đóng kín, không phủ phê tròn trặn, không cân đối đến buồn tẻ. Cánh cửa ấy đem lại cho con người cái nhìn xa và đôi cánh ước mơ, để trong lúc chịu sự vận hành của guồng máy cuộc đời vẫn có những phút quay về với chính mình và hoà nhập với bản thể mầu nhiệm.
Vì vậy mà không đợi như Trương Vô Kỵ phải từ bỏ chức minh chủ mới về vẽ lông mày cho Triệu Minh, Nguyễn Xuân Hoa vẫn cứ sống giữa “ngổn ngang trăm mối vòng quay của đời” mà vẫn có thời gian để làm “thơ nịnh vợ”. Bởi “Thơ làm cho vợ đọc chơi, cũng nghe thấm nỗi đau đời của thơ”. Dường như chẳng có ranh giới gì giữa chung và riêng, lớn và nhỏ, bởi tất cả đều xuất phát từ một tâm hồn, từ sự chí thành với cuộc đời.

“Thi giả tâm chi thanh dã”.
Thơ là tiếng của tấm lòng. Khi biết lắng nghe tâm hồn mình trên từng bước đi, sự sống của mỗi người sẽ trọn vẹn hơn, nhân bản hơn. Những người quen biết Nguyễn Xuân Hoa vốn đã quý anh về những việc khí khái anh đã làm ở đời, nay đọc thơ anh càng quý hơn. Bởi thơ là tiếng của tâm hồn, và một tâm hồn đẹp sẽ giúp người ta sống đẹp hơn, có ích hơn cho quê hương, đất nước và những người mà ta thương yêu.
T.T.M.

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LƯƠNG AN

    Như chúng ta biết, từ lâu rồi mối tình bạn giữa Miên Thẩm và Cao Bá Quát đã được xem như một quan hệ ít có, từ tri ngộ văn chương mà vượt lên sự cách biệt của hai tầng lớp xã hội, sự rẽ đôi của hai khuynh hướng tư tưởng và hai đường đời.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    (Đọc tập thơ Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm, Nxb Văn học, 2012)

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Lâm tuổi Bính Tý (1936), năm nay đã 76 tuổi, xếp vào hàng “xưa nay hiếm”, nhưng mãi đến nay anh mới đến được Suối tiên tắm (Nxb Văn học, 2012).

  • TRẦN VĂN KHÊ

    Tôi quen biết Thái Kim Lan cũng đã gần 40 năm nay, một thời gian dài thấm đẫm nhiều kỷ niệm ở đủ mọi phương diện: công việc, thưởng thức nghệ thuật và cả… chuyện đời.

  • VŨ NGỌC PHAN
              Trích hồi ký

    ... Tôi viết Nhà Văn Hiện Đại từ tháng 12-1938 đến cuối tháng giêng 1940 thì xong lượt đầu, tất cả 1650 trang trên giấy học trò.

  • HỒ THẾ HÀ

    “Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
    Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai!”

                             J.Leiba

  • HỒNG NHU

    (Đọc Vùng sâu - tiểu thuyết của Tô Nhuận Vỹ - Nxb Hội Nhà văn 1-2012)

  • NGÔ MINH

    Sau gần một năm chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, lo “chạy” kinh phí, đến giữa tháng 6-2012, Hải Kỳ tuyển tập(*) đã ra mắt độc giả. Tuyển tập dày 596 trang do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa rất bắt mắt.

  • ĐẶNG TIẾN

    Kỷ niệm 3 năm ngày mất nhà thơ Tế Hanh (16.7.2009 - 16.7.2012)

  • PHẠM TUẤN KHÁNH - VŨ THANH

    Trong văn học Việt Nam thế kỷ XIX có một nhà thơ được "thần siêu" coi là "bạn băng tuyết" và được văn nhân Trung Quốc đương thời gọi là "thi hào" - Đó là Đặng Huy Trứ. Sự nghiệp chính trị và văn học của ông vào giai đoạn đó khá nổi tiếng và được đề cao nhưng đến nay vẫn ít người biết đến.

  • NGUYỄN ĐÌNH NIÊN

    (Trích từ “Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử”, Nxb. Southeast Asian Culture and Education (SEACAEF) 2009).

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Mỗi người bước vào cõi thơ ắt hẳn sẽ để lại dấu ấn bằng mỗi phương cách khác nhau. Có người đi vào thơ ca qua những cuộc chiến, có người dùng chính đôi bàn chân mình, hay đôi tay mình, cũng có người bước vào thơ bằng chiếc xe đạp hay xe gắn máy,… nhưng tất cả đều đến với thi ca bằng trái tim.

  • Giải thưởng Nhà nước ra đời từ năm 1996. Đến nay Huế đã có 8 người nhận được giải thưởng danh giá này. Ngoài các nhà văn Thanh Hải, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ; Tổng Biên tập đầu tiên của Sông Hương - nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nhận Giải thưởng Nhà nước.

  • PHAN NGỌC THU

    Từ sau năm 1975, văn học nước ta nói chung, văn xuôi nói riêng đã có nhiều chuyển biến trong cách tiếp cận với đời sống và ngày càng có xu hướng quan tâm hơn đến những vấn đề thuộc về chiều sâu của giá trị con người.

  • LÊ HUỲNH LÂM 
    (Đọc tập thơ “Những con chim của bóng tối” của Phạm Tấn Hầu - Nxb Văn học 6/2011) 

    Tôi một mình, lũ pharixêu múa rối
    Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi.

                            Bôrix Patecnax

  • MAI VĂN HOAN

    Trần Nhân Tông sinh năm 1258, lên ngôi năm 1279. Vừa mới lên ngôi, chàng trai 21 tuổi đã phải đối mặt với âm mưu thôn tính nước ta lần thứ hai của giặc Nguyên Mông.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY  

    Trong nhiều tư cách, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn được vinh danh là một triết gia. Hơn thế nữa, là “triết gia vĩ đại” như đánh giá của một học giả nước ngoài qua Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay vào tháng 5/2010.

  • TRÀNG DƯƠNG

    (Ðọc Phù Hoa, truyện thơ Văn Cát Tiên - Nxb Văn Học, 2011)

  • NGUYÊN SA(*)

    Từ những ngày còn theo học triết lý tại đại học Sorbonne tôi đã mơ hồ nghĩ mỗi dân tộc bao giờ cũng có một nền triết học riêng. Bởi vì, triết học, trên mọi bình diện nào đó, rút lại, chính là ý thức được hệ thống hóa và thuần túy hóa, là một tổng hợp nhân sinh quan và vũ trụ quan.

  • Có lẽ nếu không có bài thơ "Đây thôn Vỹ Giạ" thì vùng đất xinh xắn kia cũng không nhiều tao nhân mặc khách ghé thăm đến vậy. Nhắc đến bài thơ này người ta sẽ nhớ ngay đến một mối tình điển hình cho sự nuối tiếc bâng khuâng và dường như nó là phông nền của cái đẹp. Bây giờ người thiếu nữ áo trắng xưa vẫn được sương khói của thôn Vỹ giăng phủ khiến bài thơ bản mệnh của Hàn thi sĩ vẫn miên man trong tâm thức của nhiều thế hệ yêu thơ.