Đọc sách: Chiến tranh và Chiến tranh của Krasznahorkai László

09:14 02/03/2017

Nhân vật chính của Chiến tranh và chiến tranh* là một nhân viên lưu trữ tỉnh lẻ, Dr. Korin György. Vào ngày sinh nhật lần thứ 40 của mình, anh ngẫu nhiên tìm thấy trong số các tài liệu lưu trữ một tập cảo bản, một văn bản bí ẩn, khác lạ, “tuyệt vời nhất mà người ta từng viết trên mặt đất”.

Nhà văn Krasznahorkai László.

Không biết ai đã viết ra văn bản đó, cả thời gian viết ra nó cũng chỉ có thể phỏng đoán, nhưng nội dung của tập cảo bản đã từng bước chinh phục Korin, mỗi lúc một mạnh mẽ hơn. Anh chợt nhận ra rằng mình không hiểu nổi thế giới xung quanh. Trong một khoảnh khắc, thực tại bỗng trở nên phức tạp khủng khiếp đối với anh, sự đơn điệu thường ngày bỗng được thay thế bởi sự bí ẩn hồi hộp không thể giải thích nổi. Khoảnh khắc tăm tối, gây hoảng hốt đó của sự tuyệt vọng chính là khởi đầu của hành trình mà mục đích của nó không gì khác hơn là tìm lại ý nghĩa đã mất của thế giới.

Câu chuyện của tác giả vô danh đã thu hút tới mức Korin cảm thấy chính mình cũng phải trốn chạy: để cứu vãn và công bố cho thế giới biết về văn bản bí ẩn này. Anh bỏ lại nhà cửa, bán đổi ra tiền mọi thứ, và mua vé đi New York, đến “trung tâm của thế giới”, nơi cho anh hy vọng khám phá và tìm ra lời giải đáp cho bí mật và ý nghĩa của tập cảo bản cũng như của chính cuộc đời anh.

Trong tập cảo bản có bốn người đàn ông - bốn thiên thần, đi tìm lối ra khỏi mê lộ của thế giới, trốn chạy khỏi chiến tranh. Trên hành trình đi tìm sự an lạc, bình yên và cái đẹp xuyên không gian và thời gian, họ ngưỡng vọng sự hứa hẹn vĩ đại của trí tuệ con người, nhưng cũng thường xuyên phải đối diện với sự tàn phá, hủy diệt, tan rã. Sự bí ẩn của chiến tranh là ở chỗ, về cơ bản nó gắn bó không thể tách rời với con người, theo cách thức không thể hiểu nổi và không thể giải thích nổi, nó là bộ phận của tâm hồn con người, của thế giới con người. Đó chính là điều khiến các thiên thần (và Korin, người đọc về sự trốn chạy của họ, và cả người đọc cuốn tiểu thuyết) trăn trở, ưu tư.

Tập cảo bản còn một nhân vật khác thường, nhân vật bí hiểm (kiểu thần Hermes), người xuất hiện ở mọi địa danh mà chúng ta bắt gặp bốn người đàn ông kia. Đó là Mastemann - hắn xuất hiện ở đâu trong chiếc áo choàng lụa màu đen, vuốt ve chú mèo lông đỏ trong lòng, là ở đó mọi việc bắt đầu tồi tệ, thay vì sự yên tĩnh là nỗi sợ hãi, thay vì sự nhìn nhận là sự hung hăng, thay vì cái đã biết và cái chắc chắn là sự xa lạ và phập phù bất định.
Về tiểu thuyết này, nhà phê bình, nhà văn Danyi Zoltán viết:

Trong suốt hành trình này, Korin được dẫn dắt bởi vị thần Hermes (Hy Lạp). Hermes là tín sứ, là người đưa đường, nhưng cũng là vị thần tăm tối, bí ẩn, không thể nắm bắt, vị thần của những con đường ban đêm, người chỉ ra thực chất tương đối của các luật lệ, sự phức tạp của thế giới. Hermes là biểu tượng của sự thay đổi liên tục, bản ngã biến ảo của thần phủ nhận sự đồng nhất tự thân, đảo lộn trật sự của các mắt xích nguyên nhân, phá vỡ các giới hạn không gian và thời gian; và như vậy các mối liên hệ quen thuộc, qua Hermes, trở nên bí ẩn. Trong học thuyết thần bí đi tìm những sự thật tận cùng thì sự bí ẩn đóng vai trò trung tâm. Bản chất của sự bí ẩn chính là nó phải tồn tại là một bí ẩn vĩnh cửu, chính vì vậy sau mỗi bí ẩn được khám phá lại ẩn chứa một bí ẩn mới; mọi bí ẩn lại ẩn chứa một bí ẩn khác, bí ẩn ấy lại ẩn chứa một bí ẩn thứ ba, và cứ thế tiếp tục. Thế là trong hình ảnh thế giới xuất hiện mê lộ của các bí ẩn chồng lấp lên nhau, nhưng không có lối ra, nghĩa là không tồn tại một bí ẩn duy nhất, to lớn, cuối cùng. Điều này gợi nhớ đến lý thuyết hậu hiện đại, theo đó ý nghĩa luôn bị trì hoãn, liên tục trượt lùi tiếp tục, mọi việc đều được xác định bởi một điều gì đó khác, điều đó lại được giải nghĩa bằng một việc khác, và cứ thế quay tròn tới vô cùng.”

Ngôi sao lạ trên bầu trời văn chương đương đại Hungary

Krasznahorkai László sinh năm 1954 tại Gyula, một thành phố miền Đông Nam Hungary, là nhà văn tự do từ năm 1982.

Ông có lối hành văn khác lạ, các câu văn dài, nhiều khi rắc rối, trùng lặp, dồn dập như những dòng nham thạch phun ra từ ngọn núi lửa sôi sục là tâm hồn bí ẩn và trí tưởng tượng phong phú, kỳ dị của ông. Các nhà phê bình, văn giới và bạn đọc Hungary cũng đánh giá về ông rất khác nhau. Bên cạnh những nhìn nhận tích cực, nhiều ý kiến cho rằng ông có cái nhìn bi quan, tiêu cực về thế giới hiện tại và tương lai của nền văn minh nhân loại. Nhưng ông tự nhận mình là người đứng ngoài dòng chảy của văn chương chủ đạo Hungary và dường như ông ít quan tâm đến những ý kiến đó. Ông luôn hoài nghi, tự đặt câu hỏi không biết mình có đích thực là một nhà văn hay không. Theo ông, thực ra trong suốt cuộc đời cầm bút, ông chỉ viết một cuốn sách, chỉ theo đuổi, chỉ đi tìm một hình ảnh mập mờ, một ảo ảnh, lúc ẩn lúc hiện nào đó. Ông nói: “Các nhân vật của tôi tìm kiếm không mệt mỏi và sẽ còn tìm kiếm trong một mê lộ, mê lộ đó không là gì khác hơn là nơi họ mắc sai lầm và là nơi con người ta chỉ có thể có một mục đích duy nhất: hiểu ra sai lầm này và cấu trúc của nó. Họ trực tiếp đi tìm nguyên nhân sự bất an của mình, đi tìm phương thuốc chữa lành nỗi đau của mình, hay ít ra cũng để nhận ra rằng không có phương thuốc nào cho vết thương của họ…”

Krasznahorkai László là nhà văn xê dịch nhiều, cuộc đời ông liên tục là những chuyến đi xa, những chuyến khám phá các miền đất lạ. Chẳng hạn để viết tiểu thuyết Chiến tranh và chiến tranh (1999), ông đã bỏ ra mấy năm đi khắp nhiều nước Châu Âu và Mỹ, đến hầu hết những địa danh mà ông đề cập tới trong cuốn sách. Từ đầu những năm 1990, sau khi Hungary thay đổi thể chế chính trị, ông thường xuyên thay đổi chỗ ở, từ Âu sang Á.

Quan tâm đặc biệt tới văn hóa Á Đông cổ đại, ông đã nhiều lần tới Mông Cổ, Trung Quốc và Nhật Bản, có những chuyến đi kéo dài tới nửa năm trời. Rất mê Lý Bạch và thơ Đường, ông đã đi bằng tàu hỏa, tàu thủy và cả đi bộ qua những vùng mà ông gọi là “Trung Hoa cổ điển” như quê hương Khổng Tử và Lý Bạch, tiếp xúc với nhiều người dân Trung Quốc đủ các tầng lớp. Ông đã hỏi trực tiếp khoảng 300 người Trung Quốc chỉ duy nhất một câu hỏi: Ngày nay, đối với họ Lí Bạch có ý nghĩa gì?, để tìm hiểu về ý nghĩa và tác động của văn chương đích thực tới hậu thế.

Các tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được giới phê bình văn học quốc tế đánh giá cao và và rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây như Đức, Mỹ, Anh, Nhật Bản. Nữ nhà văn Mỹ Susan Sontag gọi ông là “bậc thầy Hungary khiến người ta nhớ tới Gogol và Melville tiên tri”.

Ông đã giành nhiều giải thưởng văn chương danh giá trong nước và quốc tế, trong đó có Kossuth (2004), giải thưởng cao nhất về văn học nghệ thuật của Hungary; giải Bestenliste-Preis (1993) cho sách hay nhất trong năm tại Đức; giải America Award in Literature (2014); giải Man Booker International (2015).

Nguồn: Giáp Văn Chung - Tia Sáng

-------------
* Krasznahorkai László: Chiến tranh và Chiến tranh, người dịch: Giáp Văn Chung; Công ty văn hóa và truyền thông Nhã Nam, NXB Văn học, 2017.





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.