Nhân vật chính của Chiến tranh và chiến tranh* là một nhân viên lưu trữ tỉnh lẻ, Dr. Korin György. Vào ngày sinh nhật lần thứ 40 của mình, anh ngẫu nhiên tìm thấy trong số các tài liệu lưu trữ một tập cảo bản, một văn bản bí ẩn, khác lạ, “tuyệt vời nhất mà người ta từng viết trên mặt đất”.
Nhà văn Krasznahorkai László.
Không biết ai đã viết ra văn bản đó, cả thời gian viết ra nó cũng chỉ có thể phỏng đoán, nhưng nội dung của tập cảo bản đã từng bước chinh phục Korin, mỗi lúc một mạnh mẽ hơn. Anh chợt nhận ra rằng mình không hiểu nổi thế giới xung quanh. Trong một khoảnh khắc, thực tại bỗng trở nên phức tạp khủng khiếp đối với anh, sự đơn điệu thường ngày bỗng được thay thế bởi sự bí ẩn hồi hộp không thể giải thích nổi. Khoảnh khắc tăm tối, gây hoảng hốt đó của sự tuyệt vọng chính là khởi đầu của hành trình mà mục đích của nó không gì khác hơn là tìm lại ý nghĩa đã mất của thế giới.
Câu chuyện của tác giả vô danh đã thu hút tới mức Korin cảm thấy chính mình cũng phải trốn chạy: để cứu vãn và công bố cho thế giới biết về văn bản bí ẩn này. Anh bỏ lại nhà cửa, bán đổi ra tiền mọi thứ, và mua vé đi New York, đến “trung tâm của thế giới”, nơi cho anh hy vọng khám phá và tìm ra lời giải đáp cho bí mật và ý nghĩa của tập cảo bản cũng như của chính cuộc đời anh.
Trong tập cảo bản có bốn người đàn ông - bốn thiên thần, đi tìm lối ra khỏi mê lộ của thế giới, trốn chạy khỏi chiến tranh. Trên hành trình đi tìm sự an lạc, bình yên và cái đẹp xuyên không gian và thời gian, họ ngưỡng vọng sự hứa hẹn vĩ đại của trí tuệ con người, nhưng cũng thường xuyên phải đối diện với sự tàn phá, hủy diệt, tan rã. Sự bí ẩn của chiến tranh là ở chỗ, về cơ bản nó gắn bó không thể tách rời với con người, theo cách thức không thể hiểu nổi và không thể giải thích nổi, nó là bộ phận của tâm hồn con người, của thế giới con người. Đó chính là điều khiến các thiên thần (và Korin, người đọc về sự trốn chạy của họ, và cả người đọc cuốn tiểu thuyết) trăn trở, ưu tư.
Tập cảo bản còn một nhân vật khác thường, nhân vật bí hiểm (kiểu thần Hermes), người xuất hiện ở mọi địa danh mà chúng ta bắt gặp bốn người đàn ông kia. Đó là Mastemann - hắn xuất hiện ở đâu trong chiếc áo choàng lụa màu đen, vuốt ve chú mèo lông đỏ trong lòng, là ở đó mọi việc bắt đầu tồi tệ, thay vì sự yên tĩnh là nỗi sợ hãi, thay vì sự nhìn nhận là sự hung hăng, thay vì cái đã biết và cái chắc chắn là sự xa lạ và phập phù bất định.
Về tiểu thuyết này, nhà phê bình, nhà văn Danyi Zoltán viết:
“Trong suốt hành trình này, Korin được dẫn dắt bởi vị thần Hermes (Hy Lạp). Hermes là tín sứ, là người đưa đường, nhưng cũng là vị thần tăm tối, bí ẩn, không thể nắm bắt, vị thần của những con đường ban đêm, người chỉ ra thực chất tương đối của các luật lệ, sự phức tạp của thế giới. Hermes là biểu tượng của sự thay đổi liên tục, bản ngã biến ảo của thần phủ nhận sự đồng nhất tự thân, đảo lộn trật sự của các mắt xích nguyên nhân, phá vỡ các giới hạn không gian và thời gian; và như vậy các mối liên hệ quen thuộc, qua Hermes, trở nên bí ẩn. Trong học thuyết thần bí đi tìm những sự thật tận cùng thì sự bí ẩn đóng vai trò trung tâm. Bản chất của sự bí ẩn chính là nó phải tồn tại là một bí ẩn vĩnh cửu, chính vì vậy sau mỗi bí ẩn được khám phá lại ẩn chứa một bí ẩn mới; mọi bí ẩn lại ẩn chứa một bí ẩn khác, bí ẩn ấy lại ẩn chứa một bí ẩn thứ ba, và cứ thế tiếp tục. Thế là trong hình ảnh thế giới xuất hiện mê lộ của các bí ẩn chồng lấp lên nhau, nhưng không có lối ra, nghĩa là không tồn tại một bí ẩn duy nhất, to lớn, cuối cùng. Điều này gợi nhớ đến lý thuyết hậu hiện đại, theo đó ý nghĩa luôn bị trì hoãn, liên tục trượt lùi tiếp tục, mọi việc đều được xác định bởi một điều gì đó khác, điều đó lại được giải nghĩa bằng một việc khác, và cứ thế quay tròn tới vô cùng.”
Ngôi sao lạ trên bầu trời văn chương đương đại Hungary
Krasznahorkai László sinh năm 1954 tại Gyula, một thành phố miền Đông Nam Hungary, là nhà văn tự do từ năm 1982.
Ông có lối hành văn khác lạ, các câu văn dài, nhiều khi rắc rối, trùng lặp, dồn dập như những dòng nham thạch phun ra từ ngọn núi lửa sôi sục là tâm hồn bí ẩn và trí tưởng tượng phong phú, kỳ dị của ông. Các nhà phê bình, văn giới và bạn đọc Hungary cũng đánh giá về ông rất khác nhau. Bên cạnh những nhìn nhận tích cực, nhiều ý kiến cho rằng ông có cái nhìn bi quan, tiêu cực về thế giới hiện tại và tương lai của nền văn minh nhân loại. Nhưng ông tự nhận mình là người đứng ngoài dòng chảy của văn chương chủ đạo Hungary và dường như ông ít quan tâm đến những ý kiến đó. Ông luôn hoài nghi, tự đặt câu hỏi không biết mình có đích thực là một nhà văn hay không. Theo ông, thực ra trong suốt cuộc đời cầm bút, ông chỉ viết một cuốn sách, chỉ theo đuổi, chỉ đi tìm một hình ảnh mập mờ, một ảo ảnh, lúc ẩn lúc hiện nào đó. Ông nói: “Các nhân vật của tôi tìm kiếm không mệt mỏi và sẽ còn tìm kiếm trong một mê lộ, mê lộ đó không là gì khác hơn là nơi họ mắc sai lầm và là nơi con người ta chỉ có thể có một mục đích duy nhất: hiểu ra sai lầm này và cấu trúc của nó. Họ trực tiếp đi tìm nguyên nhân sự bất an của mình, đi tìm phương thuốc chữa lành nỗi đau của mình, hay ít ra cũng để nhận ra rằng không có phương thuốc nào cho vết thương của họ…”
Krasznahorkai László là nhà văn xê dịch nhiều, cuộc đời ông liên tục là những chuyến đi xa, những chuyến khám phá các miền đất lạ. Chẳng hạn để viết tiểu thuyết Chiến tranh và chiến tranh (1999), ông đã bỏ ra mấy năm đi khắp nhiều nước Châu Âu và Mỹ, đến hầu hết những địa danh mà ông đề cập tới trong cuốn sách. Từ đầu những năm 1990, sau khi Hungary thay đổi thể chế chính trị, ông thường xuyên thay đổi chỗ ở, từ Âu sang Á.
Quan tâm đặc biệt tới văn hóa Á Đông cổ đại, ông đã nhiều lần tới Mông Cổ, Trung Quốc và Nhật Bản, có những chuyến đi kéo dài tới nửa năm trời. Rất mê Lý Bạch và thơ Đường, ông đã đi bằng tàu hỏa, tàu thủy và cả đi bộ qua những vùng mà ông gọi là “Trung Hoa cổ điển” như quê hương Khổng Tử và Lý Bạch, tiếp xúc với nhiều người dân Trung Quốc đủ các tầng lớp. Ông đã hỏi trực tiếp khoảng 300 người Trung Quốc chỉ duy nhất một câu hỏi: Ngày nay, đối với họ Lí Bạch có ý nghĩa gì?, để tìm hiểu về ý nghĩa và tác động của văn chương đích thực tới hậu thế.
Các tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được giới phê bình văn học quốc tế đánh giá cao và và rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây như Đức, Mỹ, Anh, Nhật Bản. Nữ nhà văn Mỹ Susan Sontag gọi ông là “bậc thầy Hungary khiến người ta nhớ tới Gogol và Melville tiên tri”.
Ông đã giành nhiều giải thưởng văn chương danh giá trong nước và quốc tế, trong đó có Kossuth (2004), giải thưởng cao nhất về văn học nghệ thuật của Hungary; giải Bestenliste-Preis (1993) cho sách hay nhất trong năm tại Đức; giải America Award in Literature (2014); giải Man Booker International (2015).
Nguồn: Giáp Văn Chung - Tia Sáng
-------------
* Krasznahorkai László: Chiến tranh và Chiến tranh, người dịch: Giáp Văn Chung; Công ty văn hóa và truyền thông Nhã Nam, NXB Văn học, 2017.
I. VÔLEVIC
Ở đất nước chúng tôi người ta viết rất nhiều Anne Frank, về cuộc đời ngắn ngủi đầy bi thương của cô. Rất nhiều bài báo và những bài bút ký viết về Anne Frank và tập "Nhật ký" của cô.
VAXIN BƯCỐP
IRINA RISINA thực hiện cuộc trao đổi và ghi lại trên báo Văn Học 14-5-1986.
Trong dịp kỷ niệm 70 năm Cách Mạng Tháng Mười, Nhà hát chính kịch và hài kịch Matxcơva ở Taganca lại đưa lên sân khấu một vở cũ trong kịch mục của mình.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Người bạn gái Nga đầu tiên tôi quen ở Mátxcơva là Anna Platônôpna, một cô gái có bộ tóc đen nhánh xõa lên đôi vai tròn kiểu tóc thề, đôi mày đen vẽ nhánh cong trên gương mặt lúc nào cũng tỏa ra cái chất trong sáng của tâm hồn, nói tiếng Việt thành thạo với giọng mũi thoảng nhẹ thực dễ thương.
LTS: Ông Nguyễn Thạch Giang từ Hà Nội đã gửi cho chúng tôi bài viết này kèm theo một bức thư rất chí tình. Bài viết là một tư liệu quí và thú vị, lại rất phù hợp với số báo kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng 10. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài viết và nội dung bức thư của ông Nguyễn Thạch Giang, thay cho lời tòa soạn.
"Tôi viết văn không nhằm đoạt giải thưởng hay sự công nhận. Tôi cảm thấy vinh dự, nhưng tôi nghĩ rằng phần thưởng này là thành tích chung của các nhà văn châu Phi".
MAI KHẮC ỨNG
Tùy bút
Từ Luân Đôn máy bay của hãng hàng không British Airways đưa chúng tôi sang Boston vào chiều ngày 10 tháng 9 năm 2001. C. David Thomas, Giám đốc trường Mỹ thuật Đông Dương bên Mỹ đón chúng tôi về nhà riêng tại 20 Welster Court Neuton Centre.
Đó là tiêu đề cuộc hội thảo giữa hai đoàn nhà văn Liên Xô và Việt Nam tổ chức tại trụ sở Hội Nhà văn Liên Xô ở Mátxcơva buổi đầu tháng 4-1987.
HIỆU CONSTANT
Reng reng… chuông điện thoại reo vang. “A lô, tôi nghe đây!” “Bọn anh vừa đến Paris rồi, hiện đang đi ăn sáng, khi mô mà kiếm quán ăn sáng ở Paris khó hỉ! Đi hoài mới thấy!”, là giọng của nhà văn Tô Nhuận Vỹ.
NGUYỄN CHIẾN
Không bao giờ Graham Green kể về các tác phẩm của mình trước khi ông đặt dấu chấm hết và đưa chúng tới nhà Xuất bản.
Vicki Convington (sinh ngày 22/10/1952) là một tiểu thuyết gia nổi tiếng của miền Nam Hoa Kỳ (Về dưới mái nhà/ Gathering Home, Chim thiên đường/ Bird of Paradise, Chuyến đêm về nhà/ Night Ride Home, và Nhà trọ cuối cho đàn bà/ The Last Hotel for Women).
DƯƠNG VĂN TƯỜNG
Truyện ký
Rời Vancouver, chúng tôi không dùng máy bay mà rủ nhau xuyên biên giới qua Mỹ bằng chiếc Acura. Nỗi buồn xa Canada vơi đi với người bạn đồng hành.
HIỆU CONSTANT
Cuộc đời và sự nghiệp
François Cheng sinh năm 1929 tại thành phố Nam Xương. Ông là nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu thư pháp, giáo sư đại học tại Pháp.
LTS: Valentin Raxputin là nhà văn lớn Xô Viết năm 1987 vừa tròn 50 tuổi. Các tác phẩm của ông như "Tiền cho Maria", "Hạn chót", "Sống và nhớ lấy", "Vĩnh biệt làng Matiôra", "Cháy nhà"... nổi bật lên niềm băn khoăn lo lắng cho số phận con người.
... Mỗi lần tôi đặt dấu chấm hết cho một tác phẩm, tôi nghĩ đó là tác phẩm hay nhất mình đã viết vì nó tương ứng với tuổi mình và thời điểm đó và tôi cho rằng trong khi đi xuyên qua cuộc đời, tôi bỏ lại sau lưng những cuốn sách của mình....
PHẠM XUÂN PHỤNG
Bút ký
Ngày 14 tháng 02 năm 2012, đoàn du lịch chúng tôi từ khách sạn Ramayana ở thủ đô Vientiane của nước bạn Lào qua cửa khẩu Laosamay chuẩn bị làm thủ tục nhập cảnh Thái Lan.
A. L. BARDACH
Đạo sư hiền hòa Swami Vivekananda, vị tăng sĩ xứ Bengal đã mang phép tu yoga tới Hoa Kỳ, đang thiền định ở London, năm 1896.
Thơ Hàn Mạc Tử (1912-1940)
Nhạc Walther Giger & Camille Huyền
Tiếng hát Camille Huyền
Ghi ta Walther Giger
LGT: Ursula Wills-Jones lớn lên ở Gloucestershire và sống ở Bristol. Người dân và các địa danh ở vùng Tây - Nam nước Anh là nguồn cảm hứng trong các sáng tác của bà. Bà viết truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Các tác phẩm của bà được phát trên Radio 4 của BBC và diễn ở Bristol Old Vic. Bà cũng là cộng tác viên của chuyên mục Comment is Free của tờ báo Guardian.
TRẦN HUYỀN SÂM
Ở Pháp, vào mùa thu, người ta gọi là mùa của văn học/ La rentrée littéraire. Đấy là thời điểm mà bạn đọc và báo chí xôn xao về các giải thưởng.