Đọc lại một bài thơ kháng chiến của Pháp

15:20 06/06/2008
Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.


PIERRE GAMARRA (*)

Đã có nhiều đêm

Đã có nhiều đêm ta ru mọi nỗi nhọc phiền
Và chỉ nói những lời thầm nhỏ
Đã nhiều đêm bặt câm lời ca và tiên nữ
Nước mắt đẫm rừng buồn tủi thiêng liêng

Đã có nhiều đêm lửa thiêu giấc mơ tuyệt vọng
Chó sói gặm các ngón xanh nữ thủy thần
Đã nhiều đêm đầy ngập dối lừa, căm giận
Máu chảy, đòn roi, cơ cực đường trần...

Bình minh dậy, lạ lùng, không hiểu nổi, mông lung
Dòng sông rì rào làm người ta luôn yêu thích
Những cô gái khổ đau với tình yêu đã chết
Bầy trẻ em trên người chẳng phải lụa len
Khoác số phận đắng cay với những hoài niệm đen ngòm
Họ đứng đợi mặt trời và gió về trên biển.
             H.N dịch


Lời bình:
Một trong những bài thơ kháng chiến nổi tiếng của Pháp mà tác giả của nó Pierre Gamarra cũng nổi tiếng không kém trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Cách đây sáu mươi tám năm (ngày 14/6/1940) thủ đô Pháp thành phố Paris bị phát xít Đức chiếm đóng. Từ đó, cả nước Pháp rơi vào những đêm dài tăm tối và vô cùng đau khổ.
Bằng những chi tiết ngắn gọn, cô đúc, sắc sảo và cả lãng mạn nhưng tràn đầy khổ đau và xúc động, nhà thơ giải bày nỗi đau buồn quằn quại và thiêng liêng của nhân dân và cũng là của chính mình: mất tự do, đói rét, cơ cực, trần ai... Bài thơ đặc sắc ở chỗ hết sức kiệm câu kiệm lời mà vẫn miêu tả được những tội ác man rợ của chủ nghĩa phát xít Đức hủy diệt các giá trị vật chất và tinh thần của nhân dân Pháp vốn nổi tiếng với nền văn hóa áo uyên và phong nhã: nói cũng không được phép nói to, lời ca và các nàng tiên (vẻ đẹp vật chất và phi vật chất) đều vắng bặt, những giấc mơ bình thường và êm đẹp đều bị thiêu cháy đến tận cùng; cuộc sống chỉ đầy đòn roi, máu chảy, dối trá, căm hờn...
Trong bài thơ có một câu lạ: “Và những con chó sói nó cắn các ngón tay xanh của các nữ thuỷ thần” (Et les loups qui mordaient les doigts bleus des sirènes). Đây là một hình tượng tác giả dùng để nói lên cái ý  ẩn: “đến cả nước của dòng sông cũng bị giặc cắn xé”. Người Pháp thường ví dòng sông như nữ thần và nước là những ngón tay xanh của Nàng.
Bài thơ không kết thúc với những lời ồn ào, cao giọng trái lại rất lặng lẽ, ém nhẹm và thậm chí hơi ngơ ngác: rạng đông lạ lẫm, không trung như mơ hồ, dòng sông róc rách… Trong khung cảnh mông lung gần như không hiểu được ấy, hiện lên những người đàn bà mà tình yêu đã mất, những trẻ em mà số phận và kỷ niệm đen đủi, đắng cay… Họ đang làm gì vậy? Họ không làm gì cả, chỉ đứng đó trên bờ biển, lặng im, bất khuất, tràn đầy khát vọng và niềm tin: mặt trời sẽ rực rỡ nhô lên và gió sẽ lồng lộng thổi, và…
Bài thơ mười bốn câu, trùng với thể xon-nê (sonnet) xưa cũ hay nhà thơ sử dụng thể xon-nê? Có thể như vậy và có thể không như vậy. Vấn đề là cái hơi hướng hiện đại của bài thơ. Viết về chiến tranh gần 2/3 thế kỷ rồi, giờ đọc lại “Đã có nhiều đêm” vẫn thấy mới mẻ lạ lùng. Cho hay, sự cũ kỹ hay không hoàn toàn không nằm ở hình thức. Phải chăng cũng là một dịp để chúng ta suy nghĩ thêm đôi chút về sự đổi mới văn học của Việt Nam ta giờ đây?
2008

HỒNG NHU
(nguồn: TCSH số 231 - 05 - 2008)

-----------------
* Pierre Gamarra: Nhà tiểu thuyết, nhà thơ Pháp sinh năm 1919 tại Toulouse , gốc Basque. Ông là nhà văn xã hội chủ nghĩa như người đương thời vẫn gọi. Ông từng làm chủ nhiệm tờ tạp chí Châu Âu ( Europe ) lừng danh. Một số tác phẩm của ông có tầm thế giới (vượt ra ngoài phạm vi nước Pháp) như: “Sát nhân” (L’assasin) – 1963 đoạt giải Goncourt; “Những bí mật ở Toulouse” (Les mistères de Toulouse ) – 1967; “Hoa tử đinh hương ở Saint-Lazare” (Les lilas de Saint-Lazare) – 1951 v.v…

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ THANH LƯU

    Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.

  • MAI VĂN HOAN

    Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.

  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    (Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)

  • VŨ TRỌNG QUANG

    Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:

  • GIÁNG VÂN

    Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.

  • LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.

  • Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.

  • Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.

  • Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.

  • NGUYỄN VĂN MẠNH
     
    Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng

  • MAI VĂN HOAN

    Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.

  • Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.

  • Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.

  • NHƯ MÂY

    Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ
          Trích Tự truyện “Số phận không định trước”

    Từ ngày “chuyển ngành” thành anh “cán bộ văn nghệ” (1974), một công việc tôi thường được tham gia là “đi thực tế”.

  • NGÔ MINH

    Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.