Nhà thơ Xuân Hoàng - Ảnh: vietbao.vn
Hai câu mở và hai câu kết trong bài thơ “Sông Cầu” của Xuân Hoàng, trong chừng mực nhất định, đã bộc lộ cách viết của nhà thơ trong khá nhiều bài thơ trong tập. Quả thật là thi sĩ không nên lập lại người khác và lập lại chính mình; nhưng cũng quả thật là thi sĩ hoàn toàn có quyền viết về những đề tài cũ, một khi trong cái khuôn khổ cũ ấy có xuất hiện cái mới, cái riêng của hồn thơ thi sĩ. Cho nên, trong bài “Sông Cầu”, những câu thơ như thế này vẫn được người đọc ghi nhận: “Thị xã đẹp như một lời tiễn biệt … Người ra đi thường mang gió mười phương Tình ở lại như một giàn thiên lý”. Nhưng nhiều câu khác của bài thơ, người đọc không phản đối lắm nếu nhà thơ “đừng nói”, nhất là những câu như thế này: “Thị xã trắng đứng trong trưa lặng lẽ” Tôi đã có nhiều dịp đến thị trấn sông Cầu, màu cát trắng, màu ánh sáng trưa hè đã hẳn là có, nhưng bát ngát những hàng dừa lá khua xào xạc vì gió biển ào ạt đã để lại trong tâm trí tôi hình ảnh không phai mờ về một thị xã xanh hơn là một thị xã trắng. Trong tập thơ, Xuân Hoàng đã viết về một số vùng đất quen thuộc đối với mình, ở các bài: Khúc hát về một vùng quê chiến trường, Miền Trung, Nắng miền Trung, Một chiều Đồng Hới, Bài thơ thu tặng công trường, Trên đồi Quảng Tế, Chơi núi, Mưa Huế, Ghi ở Thành Vinh, Hoa dâm bụt trong sàn nhà Bác, Mai. Trong bộn bề những tứ thơ, ý thơ không mới, không riêng của những bài này, tôi đã chắt lọc được cái mới, cái riêng của hồn thơ Xuân Hoàng biểu hiện ở những câu thơ này: “Sân nhà tôi có mấy gốc tường vi Hoa cứ nở rực hồng như đám bướm Gió bấc thổi, hoa rập rờn cánh thắm Như những niềm vui vương vấn hương Và rất say là lá sắn sau vườn Cứ lấp loáng một màu xanh thật sáng” (Nắng miền Trung) “Ý nghĩ bỗng tìm mây trắng bay Ba mươi năm nữa, cũng nơi này Đồi thông Quảng Tế còn xanh thế Không phải là tôi sẽ đến đây! Tuổi trẻ như thông tiếp tiếp chồi Ba mươi năm nữa, đến đây chơi Có người bạn đọc nghe thông hát Nhẩm lại lời thơ sẽ gặp tôi” (Trên đồi Quảng Tế) “Mưa Huế thêm đằm hương ngọc lan Núi xa thêm dịu nét mơ màng Sông gần thêm mát mùi hương xạ Thêm ấm cồn ngô sắc đậu vàng. … Ôi, giữa chiều mưa Huế vấn vương Nghe hương thu mới thoảng trong vườn Không dưng thương một chiều mưa cũ Rung lá xoài xanh ướt mặt đường” (Mưa Huế) “Vàng một nhành mai. Cơn gió thổi Hoa rơi hoa đậu thảng vô tình Chỉ riêng người ngắm hoa xao động Thương bước thời gian bước một mình” (Mai) Đi dọc những nẻo đường đất nước, Xuân Hoàng có thơ về những vùng đất đối với anh không quen thuộc như dải đất Bình Trị Thiên. Anh viết “Về một mùa gió thổi”, “Một sáng Cà Mau”, về “Đêm Tây Ninh”, về “Tiếng tắc kè trong đêm Sài Gòn”; anh viết thơ “Tặng đảo dừa”, ghi tại một thoáng xôn xao nhỏ ở “Phố Suối” Krông-pha; anh viết thơ ở “Phan Thiết” “Sông Cầu”, “Nga Sơn”, “Trà Cổ”, và có cả chùm thơ nhỏ về Lào. Giữa mùa gió thổi, dừng chân ở một miền đất, hồn thơ Xuân Hoàng cùng một lúc cảm nhận được “Cái nắng ngọt vừa vàng, vừa sáng” Nam Bộ, “Lá sầu rơi trên vỉa hè bổi hổi” Hà Nội, “Hoa dại vàng tung cánh giữa vườn xưa” Huế, “nắng và rét hòa nhau trong sắc mạ” Phan Thiết, và “Đào Lạng Sơn hồng như má trẻ thơ”. Trong đêm Sài Gòn, hồn thơ Xuân Hoàng cảm nghĩ về tiếng tắc kè quen thuộc của rừng núi. Tứ thơ mới của “Về một mùa gió thổi” và “Tiếng tắc kè trong đêm Sài Gòn” là một nguyên nhân quan trọng giúp hai bài thơ này để được ấn tượng tâm trí người đọc. Xuân Hoàng cũng có những ý thơ mới, riêng nữa: “Thị xã quây quần như một chùm thơ” (Một sáng Cà Mau) “Tây Ninh đường đêm trăng dòm nghiêng Dừa vương mùi nhang trong vườn êm Đều đều vó ngựa đi chầm chậm Hương mía hình như ai bỏ quên” (Đêm Tây Ninh) “Bỗng nhớ bâng khuâng một nét Lào Dáng chùa một nét. Nét tay chao Đường thêu một nét bay như sóng, Một nét làn mi khẽ cúi chào” (Nét Lào) Tôi đã đọc nhiều lần để chọn và trích dẫn được những câu thơ trên của Xuân Hoàng trong “Về một mùa gió thổi”. Những câu thơ như thế cho thấy được cái mới, cái riêng của hồn thơ Xuân Hoàng trong tập thơ này. Làm công việc ấy, tôi không có ý định lấy cái mới, cái riêng làm tiêu chuẩn duy nhất phân định thơ hay. Tôi muốn chỉ ra cái mạnh chủ yếu của hồn thơ Xuân Hoàng trong tập thơ này. Tôi ghi nhận tấm lòng yêu thương, trân trọng cuộc đời của Xuân Hoàng trong cả những vần thơ không trích dẫn. Tuy không phải là tất cả, nhưng trong phần lớn những vần thơ ấy, hồn thơ Xuân Hoàng nhòa lẫn với những hồn thơ khác, nhòa lẫn với chính cả hồn thơ mình trong những tập thơ trước. Đó là những vần thơ chưa xôn xao lòng người đọc. Huế, 3-1984 K.P (7/6-84) ------------------ (*) Tập thơ của Xuân Hoàng - NXB Tác phẩm Mới, Hà Nội 1983. |
Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.