Dịch giả, nhà văn Nguyễn Hồng Nhung: NGƯỜI TRUYỀN LỬA

09:10 08/02/2017

GIÁNG VÂN

Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.

Dịch giả Nguyễn Hồng Nhung

Duyên dáng, mẫn tiệp, hào phóng, người phụ nữ đã lục tuần này vẫn có sức thu hút, quyến rũ một cách lạ lùng. Tôi lần đầu tiên biết đến chị vì mê Hamvas Bela qua tác phẩm “Câu chuyện vô hình và đảo” mà chị là dịch giả.

Tuy nhiên, phải đến lần chị về Việt Nam năm 2014, trong sự kiện tọa đàm về “Trinh nữ ma-nơ- canh” của tác giả Lê Anh Hoài. Chị ngồi hàng ghế dưới, áo khoác sẫm mầu và chiếc khăn quàng dài màu sáng duyên dáng, cặp mắt sáng rực với một thần thái đặc biệt. Tôi phát hiện ra đó chính là dịch giả của “Những câu chuyện vô hình và đảo” và những tác phẩm khác nữa của văn học Hungary.

Chúng tôi nhanh chóng quen nhau. Khi đó tôi còn là người phụ trách của Trung tâm văn hóa Heriage Space, đã nhanh chóng đề nghị với chị một cuộc nói chuyện về Hamvas Bela tại Trung tâm. Ơn trời là sau vài trục trặc, talk show được thực hiện và thành công.

Khán giả của chị hôm đó, cũng như trước và những cuộc về sau mà tôi có tham dự, chủ yếu là những người trẻ, những trí thức trẻ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Tôi cũng nhìn thấy vẻ mặt hạnh phúc của họ khi được trò chuyện với chị. Họ liên tục đặt ra cho chị những câu hỏi về Hamvas Bela, những vấn đề triết học hấp dẫn họ nhưng không hề dễ hiểu, về công việc và cuộc sống của chị.

Điều làm cho họ (cũng như cho tôi) kinh ngạc chính là sức làm việc phi thường của chị. Ngoài công việc kiếm sống và chăm sóc con cái, mỗi một năm chị dịch hàng ngàn trang với những tác giả khó nhằn nhất của văn chương và triết học xứ này. Đó là chưa kể đến việc hầu như không ngày nào chị không viết, không ghi chép, làm thơ và dịch thơ. Có những ghi chép như một tản văn, hoặc như một tiểu luận văn chương.

Chị thường ngủ sớm vào khoảng 10 giờ, và hôm sau dậy rất sớm. Mở đầu cho một ngày, chị dịch thơ, hoặc làm thơ, hoặc viết một điều gì đấy. Sau đó, chị ăn sáng nhẹ nhàng rồi tập thiền dưới ánh nắng mặt trời trên ban công của ngôi nhà, mà chị bảo, ánh nắng ở đó rất nhẹ, chứ không tràn ngập một cách quá độ như Việt Nam.

Rồi, nếu không phải lên lớp, (chị là giáo viên dạy tiếng Việt tại Đại học Tổng hợp Budapes, và kiếm sống bằng công việc này) chị bắt đầu công việc dịch thuật. Với chị tất nhiên, đó là một công việc nặng nhọc nhưng vô cùng thú vị. Chỉ khi nào cảm thấy quá tải, chị mới tự cho phép mình trốn khỏi thành phố để một mình lang thang, để lấy lại sức lực và sự cân bằng.

Điều gì khiến chị có thể say mê đến mức, bỏ qua rất nhiều thứ hấp dẫn khác để làm công việc này thế?

Chị bảo, rất buồn cười là từ khi còn là một cô bé con, chị đã mê sách, mê những câu chuyện của Grim, của Andecxen đến nỗi, vào năm lớp bốn, chị tuyên bố với bố mẹ, sau này con sẽ trở thành nhà văn (!). Tất nhiên mọi người đều chỉ coi đó như một câu chuyện của trẻ con, trong khi chị thấy nó hết sức nghiêm túc.

Rồi chị là học sinh chuyên văn của Hà Nội từ lớp bốn đến hết phổ thông. Khi sang Hungary, tất cả lớp sinh viên Việt Nam của chị lúc đó đều được phân công học ngành xây dựng để khi hết chiến tranh, trở về xây dựng đất nước. May sao, sứ quán “xem xét lại” chị và một số bạn học trong đó có nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Trương Đăng Dung, bạn đồng môn, được chuyển sang học ngành Ngôn ngữ và Văn học Hungary.

Tuy nhiên cuộc đời với những thăng trầm, biến cố, những khó khăn của đất nước, của cá nhân đã kéo một Nguyễn Hồng Nhung nồng nhiệt, tự tin rời xa những mơ ước của mình, lặn ngụp trong cái bể dâu đau thương của đời người như biết bao những số phận Việt Nam xa xứ khác, mặc cho trong lòng không ngừng day dứt.

Rồi một biến cố đến với chị vào năm 2010, đó là khi người chồng của chị mất vì bạo bệnh. Chị rơi vào tình trạng tuyệt vọng, cô đơn cùng cực, cảm giác trơ trọi, bị bỏ rơi, bị từ chối, bị ghét bỏ…
 

Nhà văn Hamvas Bela

Chị thuê một phòng trong một căn hộ ở Hà Nội, may sao được sử dụng một phần nhà kho trên tầng gần cao nhất của ngôi nhà, không tiện nghi, chăn màn sơ sài, giữa mùa đông lạnh cóng, chị dịch nốt tác phẩm đầu tiên sẽ xuất bản ở Việt Nam của Hamvas Bela: Câu chuyện vô hình và đảo.

Khi lạnh quá chị đun nước nóng cho vào túi cao su rồi để chân lên đó ngồi dịch tiếp, ăn đã có một nồi cơm điện cho gạo, bí đỏ vào nấu lẫn, hoặc bánh mỳ với… lạc.

Hình như Hamvas Bela đã cứu chị. Dịch xong cuốn sách, chị bắt đầu hy vọng. Chị hủy ý định trở về Việt Nam sống để quay lại Budapest.

Từ lúc đấy trở đi, Nguyễn Hồng Nhung quyết định trở lại với văn học, bất chấp mọi khó khăn về kinh tế vẫn còn đè nặng trên vai.

Nước Hung là quê hương thứ hai, cũng là số phận của chị. Từ khi mười tám tuổi, đánh vật với từng từ một, để đến khi nói được, hiểu được, viết được, biểu đạt được mọi trạng thái bằng thứ ngôn ngữ này, nhưng chỉ đến khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc đời, chị mới nhận ra những điều rất đặc biệt của xứ sở này.

Nơi mà từ dãy Himalaya đã phóng chiếu xuống những luồng sáng đặc biệt, để mặt đất nơi đây luôn tươi tốt, đầy sinh khí. Điều này giống như một ân sủng kỳ diệu mảnh đất này có được. Không chỉ cây trái tốt tươi mà dưới lòng đất nơi đây có rất nhiều những mạch ngầm ấm nóng, chính là nước khoáng nóng thiên nhiên, khiến cho nó có một sức quyến rũ với bất cứ ai từng đặt chân đến.

Cũng từ nơi đây đã sinh ra những nhà thơ, những nhà triết học lừng danh, những nhà huyền môn, có thể thấu thị được thế giới, những người, mà theo chị, nếu đọc họ, ta có thể thay đổi chính mình.

Và chính là Hamvas Bela đã biến đổi chị. Biến một Nguyễn Hồng Nhung đau khổ, thất bại, đối nghịch với cuộc đời thành một người thấu hiểu, nhẫn nại, bao dung và đầy niềm vui sống, và luôn mọi nơi, mọi lúc, truyền niềm vui sống đó cho những người quanh mình.

Bởi vậy, dịch thuật với Nguyễn Hồng Nhung, cho đến thời điểm này, gần như một xác tín, giống như công việc của một thiên sứ, nhằm truyền đến mọi người những gì mà chị nhận được từ những con người vĩ đại mà chị yêu kính, như từ một Đấng Tối Cao.

Điều tôi thấy chị thường nhắc đi nhắc, bằng hình thức này hay hình thức khác, đó là trong mỗi chữ mình viết ra phải có cái tình trong đó. Tình NGƯỜI.

Một người viết ra những ý tưởng thông minh, sắc sảo, nhưng vô cảm đều không có giá trị. Một kẻ uyên bác, thông kim bác cổ nhưng không có cái tình, cũng sẽ không có cái để lại. Không dễ gì đánh lừa người đọc vì họ sẽ nhận ngay ra cái mà kẻ viết không có. Cũng nhờ vậy mà người ta có thể phân biệt được một người thông minh và một văn tài.

Tôi có thể trích bất kỳ một trang dịch nào đó của chị, cũng như một vài đoạn ghi chép của chị để bạn có thể cảm nhận được chị đã đặt tâm hồn của chị ở đó như thế nào. Đó là những trạng thái chú tâm tuyệt đối, giống như khi tập thiền, người ta phải chú tâm vào hơi thở vậy.

Bạn sẽ ngạc nhiên vì một thứ ngôn ngữ tươi rói cảm xúc, tươi rói các trạng thái mà tác giả trải qua. Cái đó có thể là một tài năng bẩm sinh, nhưng không ngừng được nuôi dưỡng và chăm sóc.

Tuy nhiên, tôi sẽ không trích, và sẽ để bạn tự tìm đến với các bản dịch cũng như các trang viết của chị.

Hiện nay, tại nhà xuất bản Tri Thức (53 - Nguyễn Du - Hà nội) vẫn tiếp tục bán những tác phẩm của Hamvas Bela mà chị đã dịch:

1/ CÂU CHUYỆN VÔ HÌNH VÀ ĐẢO (2013, 2014, 2016).

2/ MỘT GIỌT TỪ SỰ ĐỌA ĐÀY (2014, 2016).

3/ MINH TRIẾT THIÊNG LIÊNG (Trọn bộ 3 tập, 2016).

Và hy vọng tháng 12/2016 tới đây Trung tâm Văn hóa Đông - Tây sẽ tái bản thành công năm cuốn sách văn học cũng do chị dịch - Dịch giả NGUYỄN HỒNG NHUNG

Hà Nội 2016. September. 12
G.V   
(SHSDB23/12-2016)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THẢO LINH 

    Đà Lạt thành phố của ngàn hoa với những con đường trập trùng quanh phố núi với ảo diệu sương mù. Đà Lạt với cảnh sắc hữu tình và thơ mộng đã đi vào thi ca, nhạc họa từ bao đời nay và còn tiếp tục làm say lòng bao người đến kẻ đi.

  • TRẦN TRIỀU LINH

    (Đọc Đi ngược đám đông - Thơ Đông Hà, Nxb. Thuận Hóa, 2014)

  • UYÊN PHƯƠNG 

    Bạn đang sống ở Thủ đô Hà Nội ngàn năm cổ kính hay giữa Sài Gòn hoa lệ vàng rực ánh nắng hoặc giả có thể ở bất cứ thành phố náo nhiệt nào trên đất nước Việt Nam? Bạn đang hòa mình vào nhịp sống đô thị với đầy ắp sự văn minh, hiện đại nhưng cũng khá ồn ào và bụi bặm, thậm chí có lúc bạn cảm thấy chán nản muốn rời xa sự xô bồ và ngột ngạt của chúng?... Vào lúc ấy, chắc hẳn bạn sẽ rất vui nếu được đi đâu đó vài ngày… Cảm giác khi tạm rời xa nơi thành phố cũng rất tuyệt”.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    Thơ Tân hình thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” là công trình Tạp chí Sông Hương phối hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành vào tháng 6 năm 2014.

  • Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - gọi thân mật là Nguyên “đầu bạc” (vì mái đầu bạc trắng từ lúc còn trẻ) - một người xứ Nghệ “thuần chủng” cha ở Nghệ An, mẹ ở Hà Tĩnh, nhưng đang là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Có thể nói cuốn “An lạc mùa chay - Món chay dâng Mẹ” của nhà thơ, chuyên gia ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh (Nxb. Phụ Nữ, 2014) vừa được Nhà sách Phương Nam ấn hành trong tháng tám vừa qua, là cuốn sách thực hành về sự an lạc.

  • Tiếp sau Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh..., đến lượt Phan Khôi được mở hội thảo khoa học tại quê hương Quảng Nam hôm qua 6.10, đúng 127 năm ngày sinh của ông, để vinh danh một con người đa tài.

  • (Phỏng vấn đối thoại với các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc và nhà thơ Trần Dần)

  • Hữu Loan [1916-2010 là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự.

  • Tiểu thuyết "Công chúa nhỏ" của Frances Hodson Burnett kể câu chuyện về cô tiểu thư thất thế, nhưng vẫn mang trong mình cốt cách lớn.

  • (Vài cảm nhận khi đọc “BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA” tiểu thuyết của nhà văn TRƯƠNG VĂN DÂN
    (cty vh Phuong Nam-Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • “Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”. Câu nói đó của Thiếu tướng Hoàng Mai đã khẳng định những cống hiến của Lan Khai đối với cách mạng và nền văn học nước nhà. Từ thành tựu sáng tác cho đến nhận định của các nhà văn, nhà báo tiền bối (Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan...) về Lan Khai, chúng ta càng thấy tự hào về một con người, một nhà văn đáng kính đã làm trọn thiên chức của mình đối với dân tộc...

  • “Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu cũng vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước…”

  • Khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh nhà nho yêu nước Phạm Phú Thứ không còn bị khuất lấp trong lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt chúng ta với một tâm thế mới.

  • “Có lần tôi hỏi anh Học: Tư tưởng cách mệnh của mày nảy ra từ hồi nào? ​Anh đáp: Từ năm độ lên mười tuổi! Hồi ấy tao còn học chữ Nho ở nhà quê...”.

  • NGÔ MINH

    Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.

  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.

  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.