Di tích cố đô Huế chung sống với lũ

08:16 01/11/2009
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

Nước sông Hương trước kinh thành vượt trên báo động ba hơn 1,5m, đoạn ngã ba Bàng Lãng, nơi hợp lưu của hai dòng Tả Trạch và Hữu Trạch, cao hơn 10 mét. Thế là tuy ở Đà Nẵng nhưng đã biết lăng Minh Mạng chìm sâu trong nước 5 - 6 mét là cái chắc - phép tính đơn giản thôi vì tôi biết biết sân chầu của Hiếu Lăng (lăng Minh Mạng) cao 4 mét so mặt nước đoạn ngã ba sông. Về Huế sau lũ tôi được chứng kiến tường tận: nước tràn vào Hiếu Lăng, ngâm hơn ba ngày, lúc cao điểm ngập sau hơn 5 mét. Tất cả các công trình kiến trúc đều bị ngập từ 1,5 mét trở lên - trừ tầng gác của Minh Lâu. Không riêng gì lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị trừ điện Biểu Đức các công trình còn lại đều bị ngập. Lăng Đồng Khánh ngập toàn bộ, riêng điện Ngưng Hy ngập đến mái hiên. Các lăng Gia Long, Tự Đức, Dục Đức hầu hết các công trình kiến trúc đều được thủy thần thăm hỏi.

Hoàng thành Huế, trung tâm của quần thể di tích cố đô, nước ngập 1,5 mét, trừ điện Thái Hòa và Thái Bình Lâu các công trình đều bị ngập nước. Lượng mưa lớn và kéo dài làm toàn bộ hệ thống mái các cung điện, đình tạ, lầu gác đều bị thấm dột. Hệ thông hồ ao, hộ thành hà bị bùn lấp cạn, đường sá trong và ngoài các di tích đều bị phủ dày bùn, cây đổ ngổn ngang. Các tuyến đường đến các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định đều bị sạt lở đã và sẽ hạn chế số lượng khách tham quan. Các công trình đang tháo dỡ để trùng tu đã trôi và hư hỏng không ít vật tư, vật liệu xây dựng. Giám đốc Trung tâm BTDTCĐ Thái Công Nguyên cho biết, mặc dù lũ năm nay đã phá kỷ lục lũ lịch sử nhưng đã xác định chung sống với lũ cho nên Trung tâm đã có các phương án chủ động phòng chống, nhờ vậy lũ lớn hơn nhưng thiệt hại ít hơn so với các năm trước. Theo KTS Phùng Phu, phó giám đốc Trung tâm, thì hiệt hại ở các công trình đang trùng tu khoảng 300 triêụ đồng, tiến độ thi công các công trình sẽ bị chậm lại.


(Khắc phục hậu quả lũ lụt - Ảnh: Đặng Văn Trân)


Xứ Huế trời hành cơn lụt mỗi năm thì di tích cố đô thoát sao khỏi cảnh chung sống với lũ. Nước vào rồi nước lại ra nhưng ngập sâu như trận lũ đầu tháng 11 vừa rồi thì qúa sức tưởng tượng và quá sức chịu đựng của con người,  huống chi đây lại là di sản văn hóa của cha ông để lại đã xuống cấp theo thời gian, chiến tranh, và thiên tai. Kinh đô Huế bắt đầu xây dựng từ năm 1803, khi vua Gia Long lên ngôi, khởi nghiệp vương triều Nguyễn, thấm thoắt đã gần tròn hai thế kỷ. Trừ lăng Khải Định xây dựng vào đầu thế kỷ có chút ít bê tông cốt sắt hầu hết các công trình kiến trúc đều có khung chịu lực bằng gỗ, lại tồn tại trong môi trường khí hậu khắc nghiệt như thế tránh sao khỏi những thiệt hại sau mỗi cơn hồng thủy,mỗi trận cuồng phong. Trở lại lăng Minh Mạng không riêng gì tôi ai cũng xót xa khi tận thấy 20 cây thông cao từ 12 đến 25 mét bị đổ do mưa lũ xói bật gốc. Phục hồi một công trình kiến trúc chỉ mất từ 1 - 2 năm, tùy theo khả năng kinh phí được đầu tư, nhưng để có những "mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên" như ở đây thì phải mất cả trăm năm. Nếu tình từ ngày vua Thiệu Trị cho khởi công Hiếu Lăng thì những cây thông này đã suýt soát 160 năm tuổi.

Lại thêm một vấn nạn nữa, bờ sông phía trước Hiếu Lăng bị sạt lở một đoạn dài khoảng 300 mét,ăn sâu 50 mét. Bây giờ bờ sông chỉ cách la thành khoảng 60 mét. Không biết chuyện gì sẽ xẩy ra nếu lũ lớn xuất hiện trở lại? Nước chảy mạnh làm cho nhiều đoạn tường thành của các di tích bị sụp đổ. Hồ Lưu Khiêm ở lăng Tự Đức thơ mộng là vậy cũng bị sụp một đoạn dài 15 mét. Ở chùa Thiên Mụ cũng chung cảnh ngộ này. Quốc lộ 49 bó vỉa đồi Hà Khê bị đứt một quãng do lũ xói lở, làm sạt lở bờ kè ở phía tây chùa gây nguy hại cho toàn bộ cụm kiến trúc trước tam quan gồm tháp Phước Duyên, nhà bia, lầu chuông, trụ biểu và hệ thống bậc cấp từ bến thuyền lên chùa. Điện Hòn Chén nằm trên núi Ngọc Trản, soi mình bên sông Hương xanh thẳm vừa thơ mộng vừa thâm nghiêm nay bỗng nên trơ trọi bởi lũ cuốn trôi miếu thờ ông Hạ Ban, Bà Thủy, nhà Thánh và phía sau Minh Kính Đài bị sụp đổ. Các công trình kiến trúc ở di tích này đang đứng trước nguy cơ tiếp tục bị sụp đổ do xói lở. Xử lý xói lở để bảo vệ các di tích lăng Minh Mạng, điện Hòn Chén, chùa Thiên Mụ đã nằm ngoài khả năng của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô, của ngành Văn hóa, của tỉnh Thừa Thiên - Huế bởi có nhiều phần việc, nhiều hạng mục công trình tùy thuộc vào chuyên môn kỹ thuật và chức năng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Khoa học Công nghệ và môi trường...

Huế, sau lũ thế kỷ - 1999
TH.T
(130/12-1999)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.